Bản chất luận điệu “muốn bảo vệ chủ quyền Việt Nam phải thực hiện liên minh quân sự”
Gần đây, khi an ninh toàn cầu, khu vực xuất hiện nhiều điểm nóng, xung đột và những diễn biến phức tạp trong bảo vệ chủ quyền, an ninh biển, đảo; một số người núp dưới danh nghĩa “tư vấn”, “góp ý kiến”, đã đưa ra yêu sách, đòi hỏi phi lý rằng: “Việt Nam muốn bảo vệ chủ quyền phải thực hiện liên minh quân sự”. Họ “lập luận” rằng: Với khả năng và thực lực quân sự, an ninh của Việt Nam hiện nay thì “quá yếu” và không đủ sức để tự bảo vệ chủ quyền; nhất là chủ quyền biển, đảo. Do vậy, Việt Nam cần liên minh quân sự với một nước lớn nào đó, nhất là các nước lớn có sức mạnh quân sự thì sẽ hỗ trợ được tối đa về thực lực, kể cả vũ khí trang bị, lực lượng phương tiện hiện đại để trợ giúp bảo vệ chủ quyền; rằng chỉ khi Việt Nam thực hiện được “liên minh quân sự” thì mới có đủ khả năng để bảo vệ chủ quyền… Thậm chí, họ còn hồ đồ kết luận rằng, chính sách “không liên minh quân sự” chẳng những không giữ được đất nước trước xâm lược, mà còn không giữ nổi chế độ và sẽ làm Đảng “mất cả chì lẫn chài”. Một số kẻ quá khích lại “khuyên” rằng: “Việt Nam liên minh quân sự với các nước lớn càng sớm thì nguy cơ tiếp tục mất đảo, mất quyền chủ quyền trên Biển Đông cũng như nguy cơ hứng chịu một cuộc chiến tranh trên biển lẫn đất liền sẽ bị đẩy lùi”...
|
Quân đội Nhân dân Việt Nam quyết tâm bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo tổ quốc.
Trong ảnh Lữ đoàn 125 hiệp đồng đổ bộ trong diễn tập bảo vệ chủ quyền Ảnh: Trọng Thiết |
Vậy bản chất của luận điệu trên là gì? Trước hết, không khó để nhận ra, đây thực chất là mưu đồ đen tối, dã tâm thâm độc, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt nằm trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đang kích động dư luận xã hội chống phá đối với đường lối, chính sách quốc phòng của Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam. Thứ hai, về động cơ, mục đích của họ là hướng lái Việt Nam tham gia các liên minh quân sự, dần đi sâu vào quỹ đạo lệ thuộc bên ngoài, đánh mất độc lập, tự chủ. Thứ ba, về nội dung, họ phủ nhận, tiến tới “phủ định” vai trò lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam” đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh; thực hiện “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, hòng làm cho lực lượng này mất phương hướng, xa rời lý tưởng, mục tiêu chiến đấu; từ đó từ bỏ đường lối, chính sách độc lập, tự chủ về quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, “thế trận lòng dân”. Thứ tư, đó là những luận điệu “hoa ngôn xảo ngữ”, chiêu trò “tư vấn”, “góp ý kiến”, ẩn nấp dưới “tấm lòng người con yêu nước, vì chủ quyền dân tộc”,… để lừa bịp, gieo rắc, kích động tâm lý hoài nghi, hoang mang, dao động nơi Nhân dân hòng phá hoại, gây chia rẽ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân, Nhân dân với Đảng và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm suy giảm lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước… Chung quy, họ không muốn nền quốc phòng Việt Nam vững mạnh thực sự đâu, mà chỉ muốn Việt Nam phụ thuộc vào bên này hoặc bên kia, làm trung tâm trong sự đối đầu giữa các nước lớn ở Biển Đông hoặc càng rối loạn, xung đột thì càng tốt, để nước lớn có cớ can dự vào công việc nội của Việt Nam và khu vực.
Quan điểm nhất quán xuyên suốt của Đảng, Nhà nước Việt Nam là: Sức mạnh của nền quốc phòng phải được xây dựng dựa trên cơ sở “sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị” đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước; củng cố, tăng cường, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận chiến tranh nhân dân để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đóng góp tích cực vào gìn giữ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Với chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền Quốc phòng toàn dân vững mạnh. Việt Nam không quên sự giúp đỡ chí tình chí nghĩa của các nước, các lực lượng tiến bộ. Đồng thời, Việt Nam cũng luôn giữ lập trường độc lập, tự chủ, không thể phụ thuộc vào nước khác.
Luật Quốc phòng Việt Nam năm 2018 nêu rõ: “Thực hiện đối ngoại quốc phòng phù hợp với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chống chiến tranh dưới mọi hình thức; chủ động và tích cực hội nhập, mở rộng hợp tác quốc tế, đối thoại quốc phòng, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; không tham gia lực lượng, liên minh quân sự của bên này chống bên kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của Việt Nam để chống lại nước khác; không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi” . Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 cũng ghi rõ: “Chính sách Quốc phòng của Việt Nam mang tính chất hòa bình và tự vệ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế” . Đại hội XIII của Đảng năm 2021 tiếp tục khẳng định: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc” .
Thời gian qua, Việt Nam luôn thực hiện nhất quán đường lối quân sự, quốc phòng đã được Đảng và Nhà nước xác định, đó là đường lối quân sự, quốc phòng “độc lập, tự chủ”; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc, tạo sức mạnh tổng hợp để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Cùng với đó, Việt Nam tích cực thực hiện cam kết trở thành “thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, có nhiều đóng thiết thực vào duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới. Thực tiễn hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược và tay sai trong thế kỷ XX cho thấy, Nhân dân ta giành được những thắng lợi to lớn chính là nhờ Đảng ta đã sáng suốt, kiên định thực hiện đường lối quân sự, quốc phòng “độc lập, tự chủ, tự lực tự cường”; “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”. Ở Biển Đông chưa có hình thức liên minh nào giải quyết được tranh chấp. Trên thế giới, điểm qua các cuộc xung đột Nga - Ukraine, Israel - Hamas, vấn đề bán đảo Triều Tiên,… cho thấy, các hình thức liên minh quân sự đều không có tác dụng đối với nước thành viên yếu thế. Điều này đã để lại bài học sâu sắc về sự “ảo tưởng, ngộ nhận” khi dựa vào liên minh quân sự để bảo vệ chủ quyền quốc gia, dân tộc.
Như vậy, cả về lý luận và thực tiễn đều chứng minh rằng, chủ trương, đường lối quân sự, quốc phòng của Việt Nam là phù hợp với truyền thống lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc; thể hiện tính độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, “hòa bình và tự vệ” của đường lối quân sự, quốc phòng Việt Nam và được công bố công khai minh bạch với các nước trên thế giới nhằm tăng cường sự hiểu biết, xây dựng lòng tin của các quốc gia với Việt Nam. Chúng ta cũng có quyền khẳng định, chính sách quốc phòng của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn. Việt Nam không trông chờ vào việc liên minh quân sự với các quốc gia, nước lớn, mà xác định phải phát huy cho được sức mạnh nội lực của nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân trong bảo vệ Tổ quốc. Kiên định chủ trương này sẽ là cơ sở để chúng ta tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Kiên định và hiện thực hóa chính sách quốc phòng “không liên minh quân sự” để bảo vệ chủ quyền Việt Nam hiện nay
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực có sự biến đổi mau lẹ, phức tạp, khó dự báo, khó đoán định. Cạnh tranh chiến lược và mâu thuẫn nước lớn tiếp tục diễn ra gay gắt. Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cách mạng khoa học công nghệ đang tác động mạnh mẽ đến Việt Nam, tạo ra nhiều thời cơ thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức về bảo vệ chủ quyền quốc gia, dân tộc. Đặc biệt, dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng 4.0, vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng trở thành vấn đề lợi ích cốt lõi, có tính cấp bách mà mỗi quốc gia, dân tộc dù lớn hay nhỏ, đều đang đối mặt. Bên cạnh đó, với vị trí địa - chiến lược quan trọng trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đang là địa bàn trọng tâm trong cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc. Đại dịch COVID-19 và cuộc xung đột Nga - Ukraine là hai minh chứng về một thế giới đương đại đầy bất định và bất ổn, tác động sâu rộng và toàn diện tới vấn đề bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc, đòi hỏi Việt Nam phải có đường lối, chính sách quốc phòng đúng đắn để bảo vệ chủ quyền Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, trước hết đòi hỏi cấp ủy đảng các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền với hình thức, phương pháp đa dạng, linh hoạt, phù hợp nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết cho nhân dân và các nước trên thế giới về chủ trương, đường lối, chính sách quân sự, quốc phòng Việt Nam. Tiếp tục nghiên cứu, luận giải, làm rõ nội dung, cơ sở khoa học để khẳng định tính chính nghĩa, “hòa bình và tự vệ” của nền quốc phòng Việt Nam, được xây dựng dựa trên nền tảng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trên cơ sở đó, xây dựng và củng cố lòng tin của cộng đồng quốc tế và bạn bè yêu chuộng hòa bình trên thế giới về đất nước, con người Việt Nam. Đồng thời, làm tốt công tác tuyên truyền, cung cấp cho mọi tầng lớp nhân dân thông tin chính thống, chính xác, kịp thời, khách quan về quan điểm, đường lối quân sự, chính sách quốc phòng, an ninh của Việt Nam để định hướng dư luận, giúp nhân dân nâng cao nhận thức, hiểu rõ đúng sai, phân biệt thật giả, tích cực tham gia đấu tranh vạch trần, phản bác những quan điểm, tư tưởng sai trái, thù địch.
Cùng với đó là tập trung xây dựng lực lượng chuyên trách làm nhiệm vụ đấu tranh phản bác những thông tin bịa đặt, xuyên tạc về quốc phòng, an ninh. Trong đó, tập trung xây dựng đội ngũ nhà báo, nhà nghiên cứu, đội ngũ cộng tác viên, tuyên truyền viên trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ tư duy lý luận cao, trình độ tin học, ngoại ngữ giỏi, “phông” kiến thức xã hội rộng; có khả năng “bút chiến” thuyết phục, có sự nhiệt huyết bản lĩnh và ý chí quyết tâm cao trong đấu tranh phê phán, phản bác những thông tin sai trái, bịa đặt, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, góp phần bảo vệ đường lối, chính sách quốc phòng, an ninh của Đảng, Nhà nước ta hiện nay.
Thứ hai, kiên định nguyên tắc Đảng lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” đối với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào cũng phải coi đây là nguyên tắc bất biến, nhất quán, là nhân tố giữ vai trò quyết định thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Luôn đề cao tinh thần cảnh giác, tích cực chủ động đấu tranh làm thất bại chiêu trò “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch. Nhà nước thể chế hóa và tiến hành quản lý sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc bằng Hiến pháp, pháp luật; xác định rõ cơ chế hoạt động của các cơ quan chức năng từ trung ương đến địa phương và đội ngũ cán bộ chuyên trách về quốc phòng, an ninh. Chủ trì việc phối kết hợp trong thực hiện những nhiệm vụ liên quan đến hoạt động quốc phòng, an ninh của các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể từ trung ương đến các địa phương. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chuyên trách trong thực hiện quản lý nhà nước về công tác quốc phòng, an ninh.
Thứ ba, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn sự nghiệp cách mạng Việt Nam đã chứng minh: sức mạnh của công cuộc bảo vệ vững chắc Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của “thế trận lòng dân” vững chắc chứ không phải phụ thuộc vào sự giúp đỡ bên ngoài, không phải do liên minh quân sự mà có. Do vậy, cần phát huy sức mạnh nội lực của các tổ chức, các lực lượng, của mỗi người dân Việt Nam; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phải “tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân” ; tiếp tục “xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại… Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu và dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển” … để tạo ra sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc.
Thứ tư, để cho “trong ấm, ngoài êm”, thì bên cạnh việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại” ; “là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” . Đồng thời tích cực, chủ động hội nhập quốc tế theo trường phái “ngoại giao cây tre Việt Nam” để “thêm bạn bớt thù”, tạo thế “đan cài về lợi ích”; cố gắng gia tăng hợp tác, tránh xung đột đối đầu, tránh bị lệ thuộc, cô lập. Quá trình hội nhập quốc tế phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết. Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế và đối ngoại quốc phòng, tạo thế và lực để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. “Kiên quyết, kiên trì” đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu và hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh chính trị, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội của các thế lực thù địch, phản động. Chủ động phát hiện, ngăn ngừa và làm triệt tiêu các nguy cơ xung đột, chiến tranh từ sớm, từ xa. Có đối sách xử lý thắng lợi các tình huống về quân sự, quốc phòng, không để bị động, bất ngờ.
Như vậy, xét về lý luận - nhận thức, cùng thực tiễn và bài học lịch sử đều cho thấy: Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa không xuất phát từ việc tham gia liên minh quân sự với một cường quốc mà là sức mạnh của ý chí tự cường và khát vọng vươn lên của dân tộc trong dòng chảy lịch sử; là sức mạnh tổng hợp của quốc gia kết hợp với sức mạnh thời đại; sức mạnh “lòng dân” dưới sự lãnh đạo của Đảng. Việt Nam luôn kiên định lập trường nguyên tắc: Bảo vệ chủ quyền theo luật pháp quốc tế, dựa vào sức mạnh của chính nghĩa, lẽ phải và sự thật lịch sử. Vì vậy, nhận thức đúng chủ trương không liên minh quân sự, đấu tranh phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về vấn đề này là góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội, tạo môi trường, hòa bình, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và mở rộng quan hệ đối ngoại của đất nước; duy trì sức mạnh quốc phòng cần thiết, sẵn sàng đánh bại mọi hình thái chiến tranh xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.
Trần Văn Chung - Bộ CHQS tỉnh