Về bố cục, kết cấu Quy định 144-QĐ/TW có 6 Điều. Nội dung của Điều 1 đến Điều 5 là sự cụ thể hóa chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới. Điều 6 là quy định về tổ chức thực hiện. Nội dung các chuẩn mực đạo đức cách mạng trong Quy định này có tính cô đọng, khái quát và dễ hiểu.
Nội dung của từng điều về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên lại được cụ thể hóa thành từng khoản gắn với tên gọi của từng chuẩn mực đạo đức đã nêu ở tên từng điều. Chính xác hơn là từ nội dung cụ thể của 5 điều đã được cụ thể hóa thành 19 chuẩn mực đạo đức cách mạng mà mỗi cán bộ, đảng viên cần phải tuân thủ.
Nội dung cơ bản của Điều 1 - Yêu nước, tôn trọng Nhân dân, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc.
Điều 1 được cụ thể hóa thành 3 khoản tương ứng với các mệnh đề của tên Điều như nội dung khoản 1 chính là cụ thể hóa nội dung: “yêu nước” có nội hàm là gì. Đó là “Suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng cách mạng của Đảng; nêu cao tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với sự nghiệp cách mạng của Đảng; hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân”.
Tương tự như vậy, chuẩn mực “tôn trọng nhân dân” được cụ thể hóa thành khoản 2 và điểm đáng chú ý chính là: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại đến dân phải hết sức tránh”. Đây chính là sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh, về nội dung này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Muốn cho dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”.
Chuẩn mực “tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc” được cụ thể hóa thành khoản 3 với 2 yêu cầu rất rõ ràng là “Đặt lợi ích quốc gia - dân tộc, lợi ích chung của Đảng, Nhà nước và của Nhân dân lên trên hết, trước hết” và “kiên quyết, kiên trì đấu tranh với mọi hành vi gây hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc, lợi ích của Đảng, Nhà nước và của Nhân dân”.
Nội dung của Điều 2 - Bản lĩnh, đổi mới, sáng tạo, hội nhập.
Điều 2 được thiết kế thành 4 khoản tương ứng với nội hàm của từng chuẩn mực. Tinh thần bao trùm của Điều 2 chính là nội dung về “bản lĩnh”.
Chuẩn mực bản lĩnh được cụ thể hóa thành khoản 1 với 3 yêu cầu là “kiên định” với 4 nội dung về nền tảng tư tưởng, mục tiêu, đường lối đổi mới và các nguyên tắc xây dựng Đảng; “kiên quyết, kiên trì” bảo vệ nền tảng tư tưởng và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch và “thực hiện nghiêm” các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Chuẩn mực “đổi mới” được diễn đạt ở khoản 2 theo tinh thần “độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, ý chí vươn lên, cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần phát triển đất nước, địa phương, cơ quan, đơn vị”.
Khoản 3 cụ thể hóa “sáng tạo” theo tinh thần cán bộ “6 dám” mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu thời gian gần đây: “Dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thách thức, hành động vì lợi ích chung, vì nước, vì dân”. Muốn đổi mới, sáng tạo thì chắc chắn cán bộ, đảng viên rất cần có bản lĩnh.
Khoản 4 cụ thể hóa chuẩn mực về “hội nhập” theo tính thần đề cao tính tích cực, chủ động “hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng theo đường lối đối ngoại của Đảng phù hợp với luật pháp quốc tế, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng cộng đồng vì hoà bình, ổn định, tiến bộ và phát triển”.
Nội dung của Điều 3 - Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Các nội dung cụ thể của Điều 3 được cụ thể hóa thành 5 khoản rất cụ thể trên tinh thần kế thừa các chuẩn mực về cần, kiệm, liêm, chính mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra và có cập nhật những yêu cầu mới cho phù hợp. Khoản 1 bên cạnh việc lý giải về nội dung “Cần” còn đưa ra mục tiêu là góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc. Nội dung khoản 2 giải thích về “Kiệm” đưa ra yêu cầu cần sử dụng tài sản công đúng mục đích, quy định, không gây lãng phí đến tài sản công và tư.
Khoản 3 sau khi giải thích về nội dung “Liêm” còn đưa ra yêu cầu về “Chủ động phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ”.
Quy định của khoản 4 về “Chính” có tính cập nhật khi đưa ra chuẩn mực về “Trung thực, thẳng thắn, khách quan, công tâm, tích cực đấu tranh tự phê bình và phê bình, không giấu khuyết điểm, không nói sai sự thật”; còn đưa ra yêu cầu về việc cán bộ, đảng viên phải dũng cảm “thấy đúng phải bảo vệ, thấy sai phải đấu tranh”.
Khoản 5 về “chí công vô tư” có nhiều nội dung mới rất đáng chú ý. Bên cạnh việc yêu cầu cán bộ, đảng viên phải tự mình rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hiện việc “giữ gìn phẩm giá của người cán bộ, đảng viên, không để tác động lôi kéo, cám dỗ tiêu cực”, “Thực hiện văn hoá từ chức khi không đủ khả năng, uy tín” thì còn yêu cầu trách nhiệm về nêu gương và vận động gia đình, người thân và người khác thực hành đạo đức cách mạng: “Không để gia đình, người thân và người khác lợi dụng chức vụ, vị trí công tác để trục lợi; bảo vệ uy tín, danh dự của bản thân và tổ chức đảng”.
Nội dung của Điều 4 - Đoàn kết, kỷ cương, tình thương, trách nhiệm.
Quy định của Điều 4 dành khoản 1 nói về “Đoàn kết” với hai nội dung chính là “Luôn luôn giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, cơ quan, tổ chức và trong Nhân dân, trước hết là ở chi bộ, cơ quan, đơn vị công tác, khu dân cư” và yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải “kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện chia rẽ, bè phái, cục bộ, lợi ích nhóm; xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện”.
Khoản 2 đề cập về nội dung “Kỷ cương” với yêu cầu về việc thực hành “nói đi đôi với làm”, tuân thủ các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Điều cần lưu ý là nội dung về “kỷ cương” yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên cần phải giữa nghiêm kỷ luật phát ngôn cũng như “phục tùng sự phân công của Đảng, của tổ chức” vì những nội dung này đang có biểu hiện vi phạm khá nhiều thời gian gần đây.
Khoản 3 thể hiện tính nhân văn và đạo lý truyền thống của dân tộc Việt Nam: “Sống có nghĩa tình, chân thành, thương yêu, đối xử, giúp đỡ đồng chí, đồng nghiệp và mọi người theo lẽ phải, phù hợp với đạo lý dân tộc, cùng nhau tiến bộ”.
Khoản 4 về chuẩn mực “trách nhiệm” đã làm rõ các yêu cầu về trách nhiệm công tác và sinh hoạt; sẵn sàng đảm nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đồng thời yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải “Kiên quyết đấu tranh, phê phán mọi hành vi né tránh, đùn đẩy, hoặc có tư tưởng trung bình chủ nghĩa, làm việc cầm chừng, sợ trách nhiệm, không dám làm”.
Thời gian vừa qua, tình trạng sợ trách nhiệm, không dám hành động vì lợi ích chung trong một bộ phận cán bộ, công chức là rất đáng lo ngại, gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức về trách nhiệm đối với nhiệm vụ được giao. Chính vì vậy, Quy định 144-QĐ/TW nhấn mạnh nội dung “trách nhiệm” là rất cần thiết và góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng sợ trách nhiệm trong một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay.
Về nguyên nhân của bệnh sợ trách nhiệm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Có lợi cho tôi thì tôi tích cực; không có lợi cho tôi thì tôi tiêu cực. Tôi muốn có địa vị cao, nhưng lại sợ trách nhiệm”. Người yêu cầu: “...quyết không vì lợi riêng mà hại đến lợi chung. Mọi việc đều để lợi ích của Đảng và của nhân dân lên trên hết”(9).
Nội dung của Điều 5 - Gương mẫu, khiêm tốn, tu dưỡng rèn luyện, học tập suốt đời.
Quy định 144-QĐ/TW dành khoản 1 và 2 để cụ thể hóa chuẩn mực “gương mẫu” vì mỗi cán bộ, đảng viên cần phải gương mẫu tiên phong về lý luận và tiên phong về hành động thực tiễn. Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (tháng 2/1848), C.Mác và Ph.Ănghen đã khẳng định: “về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên; về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Chính vì vậy, hoàn thiện các quy định của Đảng Cộng sản Việt Nam và phát huy phương thức lãnh đạo bằng sự nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên hơn lúc nào hết cần được mỗi cán bộ, đảng viên hiểu đúng và thực hiện có hiệu quả trong thực tế: “Cán bộ, đảng viên chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, cấp trên gương mẫu trước cấp dưới, cấp uỷ gương mẫu trước đảng viên, đảng viên gương mẫu trước quần chúng”.
Nội dung gương mẫu của cán bộ, đảng viên không chỉ dừng lại ở việc tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của bản thân mà còn “Tích cực vận động, thuyết phục gia đình, người thân chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”.
Bên cạnh chuẩn mực cụ thể về gương mẫu, Quy định 144-QĐ/TW còn cụ thể hóa chuẩn mực “khiêm tốn”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: “Người cách mạng mẫu mực phải khiêm tốn, khoan hoà, lượng thứ, can đảm khi sa cơ, bình tĩnh khi thắng thế, không bao giờ được quên rằng cuộc đời mình và sự nghiệp của mình thuộc về toàn nhân loại chứ không thuộc về mình”.
Gương mẫu cùng với khiêm tốn chính là yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên cần phải “không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao phẩm chất, đạo đức, trình độ, năng lực công tác. Nói đi đôi với làm, làm đi đôi với nói, đã nói là làm”.
Nội dung của khoản 3 chính là sự tiếp nối tinh thần của Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới: “Mọi đảng viên phải gương mẫu, nói đi đôi với làm, thực hiện nghiêm Điều lệ Đảng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, phục tùng tuyệt đối sự phân công của Đảng; giữ mối liên hệ mật thiết với Nhân dân; học tập, rèn luyện, nâng cao năng lực, phẩm chất, lối sống; giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng”.
Điều 6 bên cạnh nội dung về tổ chức thực hiện, trách nhiệm của các cấp, các ngành các cơ quan đơn vị, đã yêu cầu “Cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần gương mẫu, thực hiện nghiêm Quy định này”.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ vị trí, vai trò và đặt niền tin vào thế hệ trẻ. Người khẳng định rằng, thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà, thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, mạnh hay yếu một phần lớn là do các thanh niên. Với vai trò, nhiệm vụ kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đòi hỏi khách quan đạt ra hiện nay là cần phát huy vai trò của lực lượng thanh niên trong bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dưng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh. Tại đại hội đại biểu toàn quốc Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh lần thứ 12, nhiệm kỳ 2022 – 2027. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đánh giá Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đã có nhiều cố gắng để đổi mới nội dung phương thức hoạt động, đặc biệt là trong việc giáo dục lý tưởng cách mạng , bồi dưỡng đạo đức lối sống lành mạnh cho thế hệ trẻ, qua đó tính tích cực chính trị, niềm tin thanh niên đối với Đảng với tổ chức đoàn, với công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đang được thanh niên hưởng ứng.
Trước sự nghiệp đổi mới của đất nước. Với vai trò là lực lượng nồng cốt của dân tộc, là chủ nhân tương lai của đất nước, xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mỗi cán cán bộ đoàn viên, thanh niên hãy chủ động, sáng tạo, tích cực tu dưỡng, rèn luyện đạo đức lối sống của bản thân theo Chuẩn mực đạo đức cách mạng Quy định số 144 của Bộ Chính trị. Để xứng đáng là đoàn viên, thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh góp sức trẻ của mình trong công cuộc xây dựng Đảng, xây tổ quốc ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.