Sign In

Tư duy lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam đáp ứng yêu cầu thực tiễn thời đại

10:23 07/03/2023
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình lâu dài, gian khổ và hết sức phức tạp. Việt Nam hiện nay đang trải qua thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Kể từ khi mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ vào năm 1991 thì các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra rất nhiều bài học lịch sử quý báu để đi đến thắng lợi và đạt được những thành tựu rực rỡ như ngày nay. Có được những thành tựu đó, không thể phủ nhận tầm quan trọng tư duy lãnh đạo cách mạng của Đảng được thể hiện rõ nét thông qua các kỳ Đại hội Đảng ngày càng sáng tạo, phù hợp, hiệu quả trong thực tiễn phát triển của đất nước qua từng thời kỳ.

Tư duy lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là quá trình nhận thức, lãnh đạo của Đảng qua các thời kỳ lịch sử được thể hiện qua công tác nghiên cứu, tổng kết lịch sử, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, từ đó đề ra phương pháp, cách thức trong lãnh đạo, chỉ đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Trước đòi hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam, ngay từ đầu thế kỷ XX, trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của các cuộc cách mạng trên thế giới và đi tới lập trường cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác lập con đường cách mạng Việt Nam, đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga - con đường cách mạng vô sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(1).

Mùa Xuân năm 1930, tại Hồng Công (Trung Quốc), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Với mục tiêu, con đường, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, xóa bỏ ách áp bức của chế độ thực dân kéo dài hơn 80 năm; xóa bỏ chế độ phong kiến đã tồn tại hàng mấy ngàn năm. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, hòa bình và chủ nghĩa xã hội.

Trên nền tảng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bổ sung, phát triển và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam. Đảng đã chèo lái con thuyền cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đánh bại thực dân Pháp ở núi rừng Điện Biên Phủ (1954), đánh bại đế quốc Mỹ và chế độ ngụy quyền làm nên chiến thắng mùa xuân năm 1975, non sông thu về một mối, cả nước đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội.

Sau đó, Đảng ta lại tiếp tục lãnh đạo nhân dân vượt qua những thử thách của lịch sử, thực hiện đổi mới đất nước được đánh dấu bằng Đại hội VI năm 1986, mà đột phá đầu tiên là đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật”, “nói đúng sự thật”, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan… trên cơ sở đó, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từng bước được hình thành, hoàn thiện.

Kế thừa tư duy đổi mới của Đại hội lần thứ VI, trong bối cảnh hệ thống xã hội chủ nghĩa bước vào giai đoạn thoái trào, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) đã thể hiện bản lĩnh của một Đảng Cộng sản từng kinh qua nhiều thử thách và dày dạn kinh nghiệm, Đại hội đã thông qua và quyết định ban hành Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991). Cương lĩnh đã từng bước làm sáng rõ hơn nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Lần đầu tiên Đảng đã trình bày một cách có hệ thống, toàn diện về những vấn đề cơ bản về chủ nghĩa xã hội và phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội, những định hướng có tính nguyên tắc bảo đảm cách mạng nước ta không đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã đạt được những bước tiến quan trọng và về lý luận và thực tiễn. Lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt.

Có thể thấy, Đảng ta vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo trên thực tiễn theo từng thời điểm lịch sử của đất nước được thể hiện trong quan điểm về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta được thể hiện thông qua các kỳ Đại hội Đảng mà đặc biệt là Đại hội Đảng lần thứ XI làm rõ nội hàm, mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”(2).

Đại hội Đảng lần thứ XII xác định quan niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa rõ về nội hàm, mục tiêu và cách thức thực hiện: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của nền kinh tế thị trường, đồng thời đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”(3).

Đại hội Đảng lần thứ XIII khẳng định: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận  hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”(4).

Sự linh hoạt, sáng tạo trong lãnh đạo của Đảng đã giúp đất nước ta phát triển mạnh mẽ về kinh tế chỉ sau 48 năm thống nhất đất nước và 37 năm đổi mới.

Bên cạnh đó, vấn đề nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn là một trong những yêu cầu đặc biệt quan trọng đối với sự lãnh đạo của Đảng hiện nay nhằm kiểm nghiệm các tri thức lý luận đã có, đồng thời thu thập, bổ sung những tri thức thực tiễn mới vào hệ thống lý luận của Đảng. Đảng đã vận dụng và phát triển quan điểm thực tiễn trong nhận thức, đánh giá tình hình xây dựng và phát triển đất nước. Đổi mới là một sự nghiệp chưa có tiền lệ và thông lệ, Đảng phải vừa làm, vừa tổng kết kinh nghiệm để không ngừng bổ sung, phát triển lý luận. Vì vậy, công tác tổng kết thực tiễn có tầm quan trọng đặc biệt trong hoạt động nghiên cứu lý luận của Đảng. Nhiệm vụ tổng kết thực tiễn xuất phát từ bài học lớn mà Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đúc kết là Đảng phải hành động theo quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn mà xây dựng đường lối, phát triển lý luận.

Thông qua các kỳ Đại hội của Đảng có thể nhận thấy rằng Đảng ta đã liên tục nhấn mạnh đến yêu cầu tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển đường lối, chủ trương, chính sách, đặc biệt là tổng kết những mô hình mới, cách làm sáng tạo từ địa phương và cơ sở để nhân rộng. Cùng với đó là việc tổng kết kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới nhất là các nước đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa để chúng ta bớt phải đi các bước mò mẫm, thực hiện phát triển rút ngắn.

duy lãnh đạo của Đảng trong Đại hội XIII được thể hiện cụ thể trên các lĩnh vực chính sau: Kinh tế, chính trị, văn hóa và tư tưởng. Cụ thể:

Về lĩnh vực kinh tế: Đảng ta đã thẳng thắn nhìn nhận về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững; kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ; hiệu quả và năng lực của nhiều doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế; môi trường bị ô nhiễm tại nhiều nơi; công tác quản lý, điều tiết thị trường còn nhiều bất cập. Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng quyết liệt trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

Để khắc phục tồn tại, hạn chế trên, Đảng ta nhấn mạnh đến giải pháp mô hình tăng trưởng mới dựa trên tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Điều này do nền kinh tế của chúng ta cần đẩy mạnh phát triển theo chiều sâu; trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc tận dụng cơ hội là hết sức quan trọng và có tính quyết định tạo ra sự phát triển nhanh và bền vững cho đất nước. Trong các chỉ tiêu cụ thể của nền kinh tế cần đạt được cho giai đoạn 2020 - 2025 đã xác định cụ thể kinh tế số chiếm 20% tổng sản phẩm quốc nội (GDP), đến năm 2030 kinh tế số chiếm khoảng 30% GDP. Văn kiện cũng nhấn mạnh yêu cầu cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, phát triển các ngành, lĩnh vực, doanh nghiệp trên nền tảng ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu của khoa học - công nghệ; phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.

Về lĩnh vực chính trị: Trong đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam từ đại hội VI đến nay, đổi mới hệ thống chính trị là một trong những nội dung mang tính cốt lõi, cấp bách và hệ trọng. Những quan điểm của Đảng về đổi mới hệ thống chính trị từ Đại hội VI đến Đại hội XIII đã thể hiện rõ nét sự phát triển nhận thức của Đảng về vấn đề đổi mới nói chung, đổi mới về chính trị mà trực tiếp là đổi mới hệ thống chính trị nói riêng. Các văn kiện được thông qua tại Đại hội XIII được xây dựng trên cơ sở tổng kết sâu sắc lý luận và thực tiễn; kết tinh trí tuệ, ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Các văn kiện đã tổng kết, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng gắn với việc nhìn lại 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991; tổng kết 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, đồng thời xác định mục tiêu, phương hướng đến năm 2030 và tầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2045. Văn kiện xác định, về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Đặc biệt, tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch lại luôn tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội XIII đã phát triển thành tố “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” của Đại hội XII thành “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Điểm mới là bổ sung “xây dựng hệ thống chính trị” và không chỉ đề cập đến xây dựng Đảng, mà cả chỉnh đốn Đảng.

Về mục tiêu về xây dựng Đảng, về mục tiêu tổng quát, Đại hội XII xác định: Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đại hội XIII xác định: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện”. Điểm mới của Đại hội XIII là không chỉ nâng cao “năng lực lãnh đạo” mà cả “năng lực cầm quyền”, không chỉ “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” mà cả “hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện”.

Về định hướng xây dựng Đảng, trong định hướng phát triển đất nước 10 năm 2021-2030, Báo cáo chính trị nêu định hướng về xây dựng Đảng: “Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện; tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng… xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; làm tốt công tác tư tưởng, lý luận; chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng và công tác dân vận của Đảng”. So với Đại hội XII, Đại hội XIII xác định xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện; nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, nêu yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược.

Về lĩnh vực văn hóa: Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng ta đã có nhiều văn kiện định hướng nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Trong đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, XIII của Đảng là những văn kiện có tầm quan trọng đặc biệt, thể hiện tập trung, nhất quán tư duy đổi mới về văn hóa của Đảng, vừa giải quyết những vấn đề đặt ra trước mắt, vừa có tính định hướng chiến lược lâu dài về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Đại hội XIII đã đưa ra những luận điểm mới về văn hóa, nhiệm vụ của văn hóa trong giai đoạn mới của lịch sử, đặc biệt được thể hiện trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. “Đứng trước những thời cơ và thách thức mới, yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng nước ta là phải tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; “văn hóa còn thì dân tộc còn”, “văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần”, “động lực phát triển”, và “soi đường cho quốc dân đi”; phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.

Về lĩnh vực tư tưởng: Đại hội XIII Đảng ta chú trọng đến vấn đề bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, cùng với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, các thế lực thù địch sử dụng “diễn biến hòa bình” để gây ra những cuộc bạo loạn, lợi dụng chiêu bài tự do, dân chủ để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta, đòi đa đảng, đa nguyên chính trị,… Mặt khác, những phát ngôn hay hành động mang tính chất dân túy được các thế lực thù địch sử dụng để lôi kéo một bộ phận nhân dân phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bản chất của chủ nghĩa dân túy mà các đối tượng thù địch, chống đối trong chiêu bài dân chủ, nhân đạo, nhân quyền vẫn là chủ nghĩa cơ hội, mị dân, phỉnh nịnh, lừa dối. Bằng những âm mưu, thủ đoạn của mình, các thế lực thù địch đã lợi dụng chiêu bài dân chủ, dân quyền để phá hoại sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc, gây chia rẽ đồng bào công giáo với các tôn giáo khác. Lôi kéo kéo những cá nhân bất mãn với xã hội, với chế độ xã hội chủ nghĩa để dùng đó làm những công cụ tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng đặc biệt là trên các trang mạng xã hội.

Đại hội XIII của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra: “Công tác đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao; công tác nắm bắt dư luận trước những sự kiện, tình huống bất ngờ còn chưa kịp thời”. Một trong những nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là “một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, còn hoài nghi, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; một số ít hoang mang, dao động, mất lòng tin; cá biệt còn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng”. Biểu hiện nguy hại của tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên gây ra những hạn chế trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đó là do có những cán bộ, đảng viên đã công khai “phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng”.

Từ đó, Đại hội XIII của Đảng ta đã đưa ra quan điểm chỉ đạo quan trọng: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đây được coi là một trong những vấn đề “mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động.

Có thể thấy rằng, tư duy lãnh đạo của Đảng trên các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng được thể hiện hết sức sâu sắc, đúng đắn với thực tiễn mới của đất nước mà đặc biệt hội tụ trong những chủ trương, đường lối mà Đảng vạch ra tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, khẳng định được trí tuệ, bản lĩnh và quyết tâm của Đảng ta trên con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Qua 93 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng đã dẫn dắt dân tộc ta đi qua những thăng trầm của lịch sử, đi đến chiến thắng và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa như ngày nay. Điều đó đã chứng minh được bản lĩnh, tư duy đổi mới của Đảng, tư duy đúng đắn về sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn. Thông qua các kỳ Đại hội Đảng mà nhất là Đại hội XIII đã cho thấy sự nhạy bén với thời cuộc, sự hòa trộn giữa khát vọng và trí tuệ con người Việt Nam. Với 93 năm từ khi có Đảng và 37 năm đổi mới đất nước, có thể khẳng định được uy tín, trí tuệ của Đảng thông qua những thành tựu quan trọng mà Đảng và nhân dân ta làm được như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sự sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực, phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta…”(5).

Đại tá Nguyễn Quốc Huy

Ủy viên UBKT Đảng ủy Công an Trung ương

 

 

------------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 12, tr.30

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2011, tr. 204-205.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2016, tr.102.

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2021, tập I, tr 128.

(5) Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Lễ khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng ngày 26/1/2021.

 


Tag:

File đính kèm