Chiều 16/01, Bộ Tư pháp tổ chức phiên họp thẩm định Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị định số 154/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Thứ trưởng Đặng Hoàng Oanh chủ trì phiên họp.
Quy định cụ thể, chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Ban hành VBQPPL năm 2015
Phát biểu tại phiên họp, đồng chí Trần Anh Đức, Phó Vụ trưởng Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật cho biết sau hơn 07 năm thi hành Nghị định số 34/2016/NĐ-CP và 03 năm thi hành Nghị định số 154/2020/NĐ-CP, nhìn chung quy định của 02 Nghị định này đã được các bộ, ngành, địa phương tuân thủ và thực hiện tương đối nghiêm túc. Cùng với đó, việc Chính phủ ban hành Nghị định số 34/2016/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 154/2020/NĐ-CP) để quy định cụ thể, chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) đã tạo nhiều thuận lợi cho bộ, ngành, địa phương trong quá trình xây dựng, ban hành VBQPPL.
Bên cạnh những kết quả đạt được, qua công tác kiểm tra, theo dõi của Bộ Tư pháp và việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của bộ, ngành, địa phương thì việc thực hiện 02 Nghị định nêu trên còn một số khó khăn, vướng mắc nhất định. Cụ thể, một số quy định của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP và Nghị định số 154/2020/NĐ-CP chưa phù hợp với yêu cầu từ thực tiễn công tác xây dựng pháp luật trong giai đoạn hiện nay (như: quy định giải thích từ ngữ; ban hành VBQPPL theo trình tự, thủ tục rút gọn;…); một số quy định còn thiếu trong Nghị định cần bổ sung hoặc quy định rõ hơn (như: trách nhiệm rà soát, tổng rà soát hệ thống văn bản; trách nhiệm truyền thông chính sách trong lập đề nghị và soạn thảo VBQPPL; việc xử lý thông tư liên tịch giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ…).
Vì vậy, việc kịp thời ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP và Nghị định số 154/2020/NĐ-CP để đẩy nhanh tiến độ xây dựng, ban hành VBQPPL đồng thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của bộ, ngành, địa phương trong xây dựng, ban hành VBQPPL là rất cần thiết.
Nội dung sửa đổi, bổ sung Nghị định số 34/2016/NĐ-CP và Nghị định số 154/2020/NĐ-CP tập trung vào 03 nhóm vấn đề chính gồm: Nhóm các quy định được cắt giảm, đơn giản hóa để đẩy nhanh tiến độ, bảo đảm chất lượng của văn bản nhưng vẫn phù hợp với quy định của Luật Ban hành VBQPPL; Nhóm các quy định được sửa đổi, bổ sung để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho bộ, ngành, địa phương do có mâu thuẫn, chồng chéo hoặc chưa phù hợp với quy định của Luật Ban hành VBQPPL; Nhóm các quy định được sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn công tác xây dựng pháp luật; nâng cao trách nhiệm của cơ quan lập đề nghị, soạn thảo VBQPPL và các chủ thể có liên quan trong quá trình xây dựng, ban hành VBQPPL.
Tiếp tục rà soát các VBQPPL có liên quan để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật
Thứ trưởng cũng đánh giá dự thảo Nghị định cơ bản phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, đặc biệt Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới; phù hợp với các chính sách của nhà nước, đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp; tuy nhiên cơ quan chủ trì soạn thảo cần tiếp tục rà soát các VBQPPL có liên quan để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật và đánh giá thêm các điều kiện đảm bảo nguồn nhân lực, tài chính khi thi hành Nghị định.
Bên cạnh đó, cơ quan chủ trì soạn thảo cũng cần rà soát, điều chỉnh khái niệm chính sách để bao quát nội hàm và phản ánh đầy đủ nội dung thuật ngữ chính sách; làm rõ khái niệm và các trường hợp kiểm tra VBQPPL; cân nhắc việc quy định “Nghị quyết của Chính phủ ban hành để chỉ đạo, điều hành nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh từ thực tiễn, áp dụng với đối tượng cụ thể, trong khoảng thời gian nhất định nhưng không phải là văn bản quy phạm pháp luật” tại dự thảo Nghị định; rà soát, nghiên cứu thêm các quy định liên quan đến đối tượng được gửi hồ sơ lấy ý kiến đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Ngoài ra, Thứ trưởng đã cho ý kiến cụ thể về các nội dung khác của dự thảo như: quy định về đánh giá tác động của chính sách; quy định về đề nghị xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn; ...
Anh Thư - Trung tâm Thông tin