1. Bởi vì, bằng phương thức lãnh đạo này mà đường lối, chủ trương của Đảng trên từng lĩnh vực được quy phạm hóa thành pháp luật, làm cho đường lối, chủ trương của Đảng được triển khai thực hiện trong toàn xã hội, không chỉ bằng tính thuyết phục của đường lối, chủ trương mà còn cả bằng tính bắt buộc chung của pháp luật. Vì thế, phương thức lãnh đạo bằng việc thể chế hóa các nghị quyết của Đảng trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội thành pháp luật có vai trò rất to lớn, không chỉ bảo đảm cho đường lối của Đảng được thực hiện trên thực tế mà còn là phương tiện để Đảng đánh giá chất lượng, hiệu quả lãnh đạo của mình và năng lực thể chế hóa pháp luật của Nhà nước.
Việc xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng phải được nghiên cứu thấu đáo, khoa học, khả thi. Cần làm cho cán bộ, đảng viên thấm nhuần, thống nhất tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, sự lãnh đạo của Đảng. Ngoài việc ban hành các chủ trương, đường lối, chính sách chung về xây dựng pháp luật, Đảng cũng ban hành các chủ trương, đường lối, chính sách thông qua việc xem xét, cho ý kiến về từng đạo luật, pháp lệnh cụ thể nhằm mục đích để mỗi đạo luật, mỗi pháp lệnh khi được ban hành phải bảo đảm theo đúng quan điểm, đường lối của Đảng và thể chế hóa đúng đắn, kịp thời quan điểm, đường lối đó. Tổ chức bộ máy, cán bộ trong công tác xây dựng pháp luật giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng của pháp luật. Cán bộ, đảng viên làm công tác xây dựng pháp luật phải có trình độ, trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái, không cục bộ. Do đó, Đảng đặc biệt quan tâm đến đội ngũ cán bộ tham gia vào công tác xây dựng pháp luật và giới thiệu những đảng viên ưu tú tham gia công tác xây dựng pháp luật sao cho việc xây dựng pháp luật bảo đảm đúng chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng; đồng thời, Đảng cũng luôn quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ xây dựng pháp luật kế cận, bởi lẽ, xây dựng chính sách, pháp luật là quá trình lâu dài, liên tục, có tính kế thừa. Do vậy, yêu cầu đặt ra là cần sự gương mẫu của đảng viên trong công tác xây dựng pháp luật; trước tiên, đó là sự gương mẫu trong việc nghiên cứu, quán triệt, thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; tiếp theo là sự gương mẫu trong thực hiện quy trình xây dựng pháp luật và phòng, chống “lợi ích nhóm”, cục bộ, tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật.
|
Đồng chí Nguyễn Hữu Đông, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Nội chính Trung ương phát biểu Kết luận tại Hội nghị giao ban công tác nội chính Quý III năm 2024 |
Đảng lãnh đạo thông qua công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng về công tác xây dựng pháp luật là vô cùng cần thiết; điều này vừa giúp cho các chủ trương, đường lối của Đảng được thực hiện đúng trên thực tế, vừa bảo đảm quy trình xây dựng pháp luật được chặt chẽ, đáp ứng được các yêu cầu đặt ra trong thực tiễn xã hội hiện nay. Đồng thời, các cán bộ tham gia vào công tác xây dựng pháp luật sẽ nâng cao ý thức, trách nhiệm hơn với nhiệm vụ được giao, thể chế hóa chính xác, đầy đủ các chủ trương, nghị quyết của Đảng thành pháp luật của Nhà nước.
“Hoàn thiện cơ bản các cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội. Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, mở đường cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán. Hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, được kiểm soát hiệu quả”.
Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương.
|
2. Trong nhiều năm qua, Đảng ta luôn coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật, thể hiện ở một số kết quả nổi bật, đó là: (1) Đảng đã đề ra chủ trương, chỉ đạo định hướng công tác xây dựng pháp luật: Từ sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986), cùng với chủ trương đổi mới toàn diện đất nước, Đảng đã cụ thể, đề cao hơn nữa vai trò quan trọng của pháp luật đối với sự phát triển của đất nước, bảo đảm sự công bằng, bình đẳng trong xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) đã đưa ra chủ trương xây dựng “Nhà nước pháp quyền”. Năm 2005, Bộ Chính trị đã ban hành một nghị quyết chuyên đề về pháp luật (Nghị quyết số 48- NQ/tW, ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”). Nghị quyết số 48-NQ/TW đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ là phải: “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật”.
Trên cơ sở Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 01-KL/TW, ngày 04/4/2016 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW, trong đó đề ra các nhóm nhiệm vụ, giải pháp để tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng hệ thống pháp luật là: “Tiếp tục đổi mới hoạt động lập pháp của Quốc hội theo hướng bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, khả thi trên cơ sở thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng và quy định của Hiến pháp, có thứ tự ưu tiên hợp lý và bảo đảm phù hợp với thực tiễn. Thực hiện nghiêm túc kế hoạch xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ và chính quyền địa phương. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan có trách nhiệm trong việc soạn thảo, thẩm tra, chỉnh lý, hoàn thiện, bảo đảm tiến độ, chất lượng, quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật…”(1).
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh yêu cầu tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân… tiếp đó, ngày 14/10/2021, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 19-KL/TW về “Định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội XV”, trong đó yêu cầu: “Chú trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, ổn định, công khai, minh bạch, có sức cạnh tranh quốc tế; lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm; tăng cường giám sát, kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước; thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Khắc phục ngay tình trạng văn bản thiếu tính ổn định, “luật khung, luật ống”, chậm ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Đồng thời, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là người đứng đầu trong xây dựng pháp luật; chống tiêu cực ngay trong công tác xây dựng pháp luật, không bị chi phối, tác động bởi các hành vi không lành mạnh của bất cứ tổ chức, cá nhân nào, không để xảy ra tình trạng lồng ghép “lợi ích nhóm”, lợi ích cục bộ của cơ quan quản lý nhà nước trong văn bản pháp luật. Tiếp tục đổi mới phương thức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, tăng tính chủ động của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội trong công tác lập pháp, giám sát việc thi hành pháp luật. Phát huy tính năng động, tích cực, vai trò, ý thức trách nhiệm của các chủ thể, đặc biệt là Chính phủ trong quy trình lập pháp. Bảo đảm phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong quá trình tổng kết, xây dựng chính sách, soạn thảo, lấy ý kiến, tiếp thu, chỉnh lý và thông qua luật.
Tăng cường thu hút chuyên gia, nhà khoa học, cán bộ hoạt động thực tiễn có kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn sâu, công tâm, khách quan, vì lợi ích quốc gia, dân tộc tham gia xây dựng pháp luật. Phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong việc nâng cao chất lượng công tác phản biện xã hội đối với quy trình lập pháp và giám sát việc thực hiện pháp luật; chú trọng bản lĩnh, ý thức chính trị, không bị chi phối, tác động bởi các hành vi không lành mạnh của bất cứ tổ chức, cá nhân nào trong quá trình giám sát, phản biện xã hội”.
Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã chỉ ra một trong số những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của công tác xây dựng pháp luật thời gian tới là “siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là người đứng đầu trong công tác xây dựng pháp luật, không để bị chi phối, tác động bởi các hành vi không lành mạnh của bất cứ tổ chức, cá nhân nào, không để xảy ra tình trạng lồng ghép “lợi ích nhóm”, lợi ích cục bộ của cơ quan quản lý nhà nước trong văn bản pháp luật. Phát huy vai trò và nâng cao chất lượng phản biện xã hội của nhân dân, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong công tác xây dựng pháp luật và giám sát việc thực hiện pháp luật”(2).
Tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 09/11/2022 về “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới”, trong đó đề ra các nhiệm vụ, giải pháp: “Xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp là trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật trên tất cả các lĩnh vực, tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc, khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững của đất nước… tiếp tục đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật, bảo đảm chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả… Bảo đảm đồng bộ, kịp thời trong xây dựng chính sách, pháp luật giữa Quốc hội với Chính phủ, giữa các bộ, giữa Trung ương và địa phương. Đa dạng hóa nguồn pháp luật, đề cao và coi trọng đạo luật, đơn giản hóa, giảm tầng nấc, loại hình văn bản trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Xác định rõ cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất sử dụng hình thức pháp lệnh để ban hành văn bản quy phạm pháp luật; luật hóa đến mức tối đa những vấn đề quan trọng của đất nước thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội... tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết chống tiêu cực, “lợi ích nhóm” trong công tác xây dựng pháp luật”.
Như vậy, Đảng đã quan tâm, ban hành nhiều văn bản để đề ra chủ trương, chỉ đạo định hướng công tác xây dựng pháp luật, với mục tiêu xây dựng hệ thống pháp luật hoàn thiện, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất và đồng bộ, khả thi, dễ thực hiện, kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập của đất nước; tạo cơ sở pháp lý đồng bộ cho việc đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước; phát huy dân chủ và quyền làm chủ của Nhân dân.
(2) Đảng lãnh đạo xây dựng tổ chức và đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật: Đảng đã xác định các quan điểm, chiến lược, đường lối, chính sách, tiêu chuẩn, quy chế, quy định, phân cấp quản lý cán bộ, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, điều động, bố trí, sử dụng, quản lý cán bộ nói chung, trong đó có đội ngũ cán bộ của cơ quan lập pháp và các cơ quan tham gia xây dựng pháp luật; đã có nhiều chủ trương, giải pháp xây dựng, đổi mới và nâng cao vị trí, vai trò của Quốc hội, chất lượng đại biểu Quốc hội, đặc biệt trong việc thực hiện chức năng lập hiến và lập pháp. Trong các nhiệm kỳ, Văn kiện của các đại hội Đảng, Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương các khóa đã đề ra quan điểm đúng đắn làm cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, trong đó có việc lựa chọn và giới thiệu đảng viên có trình độ, năng lực và phẩm chất tốt công tác ở Quốc hội; bố trí một số Ủy viên Bộ Chính trị và Ủy viên Trung ương Đảng cần thiết tham gia vào Ủy ban Thường vụ Quốc hội và làm chủ nhiệm các ủy ban, hội đồng của Quốc hội, đặc biệt là chăm lo xây dựng đội ngũ chuyên gia cho những cơ quan chuẩn bị, soạn thảo, thẩm tra, thẩm định các dự án pháp luật.
(3) Đảng lãnh đạo việc xem xét, ban hành các đạo luật cụ thể: Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã lãnh đạo, chỉ đạo những định hướng lớn về bổ sung, sửa đổi Hiến pháp; định hướng, yêu cầu về tổ chức bầu cử Quốc hội cho từng nhiệm kỳ; chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; định hướng xây dựng các đạo luật lớn, các vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng; điển hình như việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992; ban hành Hiến pháp năm 2013 để bảo đảm tính định hướng cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, phù hợp với tình hình mới; các quan điểm chỉ đạo xây dựng các dự án luật và pháp lệnh quan trọng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,…
(4) Đảng kiểm tra, giám sát đối với công tác thể chế hóa:Trước nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng về công tác xây dựng pháp luật được lồng ghép với công tác kiểm tra, giám sát nói chung. Từ sau Đại hội XIII đến nay, Đảng đã quan tâm ban hành các chủ trương, định hướng quan trọng về kiểm tra, giám sát công tác xây dựng pháp luật cụ thể như: Kết luận số 34-KL/TW, ngày 18/4/2022 của Bộ Chính trị về Chiến lược kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2030 yêu cầu “tăng cường kiểm tra, giám sát trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác xây dựng pháp luật, kịp thời ngăn chặn vi phạm trong ban hành văn bản pháp luật, lồng ghép “lợi ích nhóm”, “lợi ích cục bộ”. Quy định số 69-QĐ/TW, ngày 06/7/2022 của Bộ Chính trị về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm đã quy định một số hình thức về xử lý vi phạm trong việc ban hành, tổ chức thực hiện chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Thực hiện chủ trương của Đảng, trong thời gian qua, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã thành lập nhiều đoàn kiểm tra các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc trung ương về việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng, trong đó có việc PCTNTC, lồng ghép “lợi ích nhóm”, lợi ích cục bộ trong công tác xây dựng văn bản pháp luật. Qua công tác kiểm tra, giám sát, Đảng đã ban hành nhiều văn bản quan trọng liên quan về phòng, chống “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng văn bản pháp luật(3) và yêu cầu thu hồi, hủy bỏ nhiều văn bản trái quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước; kiến nghị các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện kịp thời nhiều cơ chế, chính sách, pháp luật còn thiếu sót, bất cập và xử lý kịp thời nhiều tổ chức, cá nhân vi phạm. Nhất là, trong năm 2023, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã tiến hành kiểm tra công tác thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật của Nhà nước(4). Qua kiểm tra đã phát hiện một số tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong công tác thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật để kiến nghị, yêu cầu xử lý, khắc phục.
“Hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Tổ chức bộ máy nhà nước cơ bản tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, chuyên nghiệp, liêm chính, chí công, vô tư”.
Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương.
|
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong xây dựng pháp luật còn một số khó khăn, vướng mắc, như sau: (1) Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa quan tâm thường xuyên đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc quán triệt, triển khai, thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng thành pháp luật; chưa chú trọng công tác kiểm tra, giám sát việc thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng thành pháp luật; (2) Một số chủ trương, chính sách của Đảng do các cơ quan tham mưu, đề xuất chưa thực sự được nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, đánh giá tác động kỹ lưỡng, khoa học, có tính khả thi, nên khi được ban hành chưa phù hợp với thực tiễn, khó thể chế hóa thành các quy định pháp luật; (3) Nội dung sự lãnh đạo của Đảng (được Điều lệ Đảng, Hiến pháp xác định) trong công tác xây dựng pháp luật chưa được thể chế hóa, cụ thể hóa đầy đủ, phần nào ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả lãnh đạo của Đảng trong công tác xây dựng pháp luật; (4) Chưa có quy định về trách nhiệm của các cơ quan tham mưu của Đảng cho ý kiến về sự phù hợp của dự thảo văn bản quy phạm pháp luật với chủ trương, đường lối của Đảng thuộc lĩnh vực mình phụ trách; (5) Một số cơ quan, tổ chức ở Trung ương và địa phương, số lượng cán bộ, công chức, viên chức bố trí cho công tác xây dựng pháp luật còn thiếu, kinh phí bảo đảm cho công tác xây dựng pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; chế độ, chính sách, tiền lương, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức làm công tác xây dựng pháp luật chưa thực sự đảm bảo cuộc sống, yên tâm công tác; (6) Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật chưa yêu cầu phải đánh giá việc phòng ngừa “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực trong dự thảo luật.
“Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường phân cấp, phân quyền, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước đi đôi với nâng cao năng lực thực thi; xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Ðẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương.
|
3. Đảng lãnh đạo mọi hoạt động của Nhà nước, trong đó có hoạt động xây dựng pháp luật là yêu cầu có tính khách quan và trở thành nhân tố quyết định hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. trong bối cảnh hiện nay, khi mà dân trí ngày một được nâng cao, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã có những tác động sâu sắc, có thể làm thay đổi nếp nghĩ và hành động của mỗi con người thì hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật càng trở nên phức tạp và khó khăn hơn. Do đó, sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng pháp luật là rất quan trọng, bảo đảm hệ thống pháp luật nước ta được hoàn thiện, đầy đủ, chất lượng, hiệu quả, thống nhất, đáp ứng được yêu cầu của xã hội theo đúng ý chí của Đảng cũng là ý chí của nhân dân và của cả dân tộc. Để làm tốt việc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong công tác xây dựng pháp luật cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau đây:
Một là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành chủ trươơng, chính sách của Đảng, bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả, thống nhất, khoa học, khả thi, dự báo chiến lược; đổi mới phương thức phổ biến, quán triệt chủ trương, chính sách về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng đối với cán bộ, đảng viên, sao cho dễ hiểu, dễ nhớ và dễ thực hiện.
Hai là, tiếp tục rà soát, thể chế hóa, cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng về công tác xây dựng pháp luật thành pháp luật; kịp thời sửa đổi, bổ sung hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, khắc phục những sơ hở, bất cập trong các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Ba là, tăng cường công tác xây dựng Đảng, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan, tổ chức, đơn vị có chức năng tham mưu, hoạch định chính sách, tham gia công tác xây dựng pháp luật để các cơ quan, tổ chức, đơn vị này thực sự trong sạch, vững mạnh; xác định rõ trách nhiệm và mối quan hệ công tác giữa cấp ủy, tổ chức đảng với lãnh đạo cơ quan trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật theo thẩm quyền.
Bốn là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, hoạch định chính sách, pháp luật theo hướng lựa chọn, bổ sung các cán bộ có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, phẩm chất, đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm thực tiễn, có khả năng nghiên cứu tổng hợp để làm việc trong các cơ quan tham mưu, xây dựng pháp luật. Bố trí kinh phí bảo đảm cho công tác xây dựng pháp luật đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Phải xác định kinh phí đảm bảo xây dựng, hoàn thiện pháp luật là kinh phí đầu tư cơ bản cho hạ tầng pháp lý của Nhà nước và xã hội. Kinh phí xây dựng pháp luật phải đủ để đáp ứng một cách thực chất các yêu cầu đổi mới quy trình và nâng cao chất lượng của các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
Năm là, tiếp tục quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các giải pháp PCTNTC, cục bộ, “lợi ích nhóm” trong quá trình xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật; tăng cường giám sát văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết luật và chủ động giải quyết, tháo gỡ các vướng mắc, bất cập phát sinh từ thực tiễn.
Sáu là, các đảng đoàn, ban cán sự đảng có liên quan và các tỉnh ủy, thành ủy quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, giám sát, nâng cao chất lượng công tác thể chế hóa, cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng thành pháp luật; tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trong công tác xây dựng pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời phát hiện, xử lý, khắc phục những hạn chế, thiếu sót, vi phạm.
Bảy là, nghiên cứu, bổ sung một số nội dung cần quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng pháp luật: (1) Xác định rõ trong Luật nguyên tắc “Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công tác xây dựng pháp luật”; (2) Bổ sung quy định về trách nhiệm của các cơ quan tham mưu của Đảng cho ý kiến về sự phù hợp của nội dung dự thảo văn bản quy phạm pháp luật với chủ trương, đường lối của Đảng; (3) Quy định cụ thể các biểu hiện của “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật; (4) Bổ sung quy định về đánh giá phòng ngừa “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực của dự thảo luật; (5) Bổ sung quy định về trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo về công tác xây dựng pháp luật; (6) Quy định cụ thể về trách nhiệm tập thể, trách nhiệm cá nhân trong việc xây dựng, ban hành, thông qua văn bản quy phạm pháp luật; (7) Quy định cụ thể về cơ chế kiểm tra, giám sát đối với văn bản quy phạm pháp luật; về thẩm quyền, quy trình kiểm tra, giám sát đối với việc thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật; (8) Quy định cụ thể về các biện pháp xử lý vi phạm trong công tác xây dựng pháp luật.
(1) Kết luận số 01-KL/TW, ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW.
(2) Kết luận số 21-KL/tW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
(3) Quy định số 37-QĐ/TW, ngày 23/10/2021 về những điều đảng viên không được làm; Kết luận số 34-KL/TW, ngày 18/4/2022 về Chiến lược kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2030; Quy định số 69-QĐ/TW, ngày 06/7/2022 về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm;…
(4) Kế hoạch số 35-KH/BCĐTW, ngày 07/8/2023 của Ban Chỉ đạo trung ương về PCTNTC về kiểm tra công tác thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật.
|
ThS. Nguyễn Uyên Minh
(Ban Nội chính Trung ương)