Cổng thông tin điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Bộ Khoa học và Công nghệ
Bộ Khoa học và Công nghệ
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Dấu ấn đậm nét của GS.TS Chu Tuấn Nhạ với sự phát triển của ngành Khoa học và Công nghệ

Khi nhìn lại chặng đường khởi sắc của khoa học và công nghệ (KH&CN) Việt Nam từ cuối thập niên 1990 đến những năm đầu thế kỷ XXI, không thể không nhắc đến vai trò quan trọng của GS.TS Chu Tuấn Nhạ. Ông được Nhà nước cử sang Ba Lan đào tạo về địa chất tại Học viện Khoa học và Công nghệ AGH UST. Từ tháng 10/1997 đến tháng 8/2002, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (KH,CN&MT) nay là Bộ Khoa học và Công nghệ), GS.TS Chu Tuấn Nhạ đã để lại những dấu ấn sâu sắc, góp phần kiến tạo nền tảng thể chế, chiến lược và cơ chế quản lý cho quá trình hiện đại hóa ngành KH&CN Việt Nam.

Trong giai đoạn đảm nhiệm trọng trách Bộ trưởng, GS.TS Chu Tuấn Nhạ đã dẫn dắt ngành KH&CN bước qua một thời kỳ bản lề, khi đất nước chuyển mình mạnh mẽ theo tiến trình công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của ông, Bộ KH,CN&MT đã tập trung xây dựng hệ thống chính sách, hoàn thiện bộ máy quản lý và hình thành những cấu phần cốt lõi của nền KH&CN hiện đại. Đây cũng là thời kỳ tư duy về vai trò của KH&CN trong phát triển kinh tế - xã hội được cụ thể hóa thành các văn bản chiến lược, luật pháp và chương trình hành động có tính bước ngoặt.

Dấu ấn đậm nét của GS.TS Chu Tuấn Nhạ với sự phát triển của ngành Khoa học và Công nghệ- Ảnh 1.

Đồng chí Chu Tuấn Nhạ, Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường giai đoạn 10/1997 - 8/2002.

Dấu ấn lớn nhất và có tính nền tảng của GS.TS Chu Tuấn Nhạ chính là việc chỉ đạo xây dựng và trình Quốc hội thông qua Luật KH&CN năm 2000. 

Lần đầu tiên, hoạt động KH&CN của Việt Nam có cơ sở pháp lý toàn diện, hiện đại, mở đường cho việc hình thành thị trường KH&CN, trao quyền tự chủ cho các tổ chức nghiên cứu và khuyến khích mạnh mẽ việc gắn nghiên cứu với sản xuất, đời sống. 

Luật KH&CN 2000 cũng đặt nền móng cho những đạo luật quan trọng sau này như Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Chuyển giao công nghệ và Luật Công nghệ cao, tạo nên một hệ thống pháp luật thống nhất, tiệm cận với chuẩn mực quốc tế.

Song song với công tác lập pháp, GS.TS Chu Tuấn Nhạ là người thúc đẩy triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 về KH&CN, Quyết định 343/TTg ngày 23/5/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng "Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2020"

Với sự tham gia của nhiều chuyên gia trong và ngoài nước, chiến lược đã xác lập các ưu tiên quốc gia về KH&CN, từ công nghệ sinh học, cơ khí – tự động hóa, công nghệ vật liệu, năng lượng đến môi trường và công nghệ thông tin. 

Đến cuối năm 1998, Bộ đã tổ chức nghiệm thu Chiến lược phát triển KH&CN một số ngành kinh tế - kỹ thuật trọng điểm, và hoàn thành Dự thảo "Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam đến năm 2020". 

Đề án Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn đến 2010 và chuyên đề "Tầm nhìn Việt Nam đến năm 2020" đã được đưa vào văn kiện phục vụ đắc lực cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Trong năm 2002, Bộ đã tiếp tục bổ sung, chỉnh lý dự thảo Đề án Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn đến 2010 cho phù hợp với tình hình mới và hoàn chỉnh Đề án theo các kết luận Hội nghị Trung ương 6 (khóa IX) về KH&CN.

Không chỉ dừng ở hoạch định, GS.TS Chu Tuấn Nhạ còn chỉ đạo tổ chức hệ thống các chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước giai đoạn 1996–2000 và 2001–2005, đưa mô hình này trở thành trụ cột của hoạt động nghiên cứu quốc gia trong nhiều thế hệ.

Trong lĩnh vực tiêu chuẩn đo lường chất lượng, GS.TS Chu Tuấn Nhạ lãnh đạo việc xây dựng và hoàn thiện nhiều văn bản pháp lý nhằm bảo đảm chất lượng hàng hóa, bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy xuất khẩu. 

Bộ KH,CN&MT trong thời kỳ này đã ban hành và hài hòa hóa nhiều tiêu chuẩn quốc gia với các tiêu chuẩn quốc tế như ISO, IEC, Codex; mở rộng năng lực của hệ thống kiểm định, thử nghiệm; đồng thời tổ chức nhiều đợt thanh tra quy mô lớn nhằm kiểm soát chất lượng hàng hóa trên thị trường. Đây là bước chuẩn bị quan trọng cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam gia nhập ASEAN và chuẩn bị gia nhập WTO.

Ở lĩnh vực môi trường, trụ cột thứ 3 của Bộ thời kỳ đó, GS.TS Chu Tuấn Nhạ đã chỉ đạo xây dựng Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010, Kế hoạch hành động môi trường giai đoạn 2001–2005 và Đề án Chiến lược kiểm soát ô nhiễm quốc gia. Một hệ thống quan trắc và phân tích môi trường được hình thành và mở rộng, cùng với hàng trăm báo cáo đánh giá tác động môi trường cho các dự án lớn được thẩm định, trong đó có những công trình trọng điểm quốc gia. 

GS.TS Chu Tuấn Nhạ cũng đặc biệt chú trọng các chương trình khắc phục hậu quả chiến tranh hóa học, mở ra hợp tác Việt – Mỹ, Việt – Nga trong nghiên cứu về dioxin, một lĩnh vực khó, nhạy cảm nhưng có ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Dấu ấn đậm nét của GS.TS Chu Tuấn Nhạ với sự phát triển của ngành Khoa học và Công nghệ- Ảnh 2.

Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh thăm và làm việc với Bộ KH,CN&MT năm 2002.

Trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, giai đoạn Bộ trưởng Chu Tuấn Nhạ lãnh đạo ghi nhận sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng đơn đăng ký lẫn phạm vi bảo hộ. 

Việc ban hành Bộ luật Dân sự với chương Quyền sở hữu công nghiệp và Nghị định 63/CP của Chính phủ, Nghị định 12/1999/NĐ-CP ngày 06/3/1999 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp cùng các văn bản hướng dẫn (Thông tư 3055/TT-BKHCNMT hướng dẫn thực hiện Nghị định 63/CP, Thông tư của Bộ Tài chính hướng dẫn về lệ phí sở hữu công nghiệp) là sự kiện quan trọng, mở ra một chương mới cho hoạt động sở hữu công nghiệp ở Việt Nam và đánh dấu bước hoàn thiện mới trong hệ thống pháp luật về sở hữu công nghiệp.

Trong giai đoạn 1981–2002, hệ thống sở hữu công nghiệp Việt Nam tiếp nhận khoảng trên 72.900 đơn đăng ký bảo hộ, trong đó có hàng chục nghìn văn bằng sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu được cấp. 

Riêng trong nhiệm kỳ 1997–2002, dưới sự chỉ đạo của GS.TS Chu Tuấn Nhạ, lĩnh vực này có bước phát triển mạnh mẽ về tổ chức và hạ tầng. Việt Nam xây dựng hệ thống dữ liệu sáng chế hiện đại và triển khai 3 trung tâm thông tin sáng chế tại Hà Nội, Đà Nẵng và TP.HCM, tạo nền tảng quan trọng cho việc tra cứu, khai thác thông tin phục vụ nghiên cứu, đổi mới công nghệ và phát triển sản phẩm. Đây cũng là giai đoạn chứng kiến việc đổi tên Cục Sở hữu công nghiệp thành Cục Sở hữu trí tuệ, đánh dấu bước chuyển quan trọng hướng tới hiện đại hóa công tác sở hữu trí tuệ của quốc gia.

Một đóng góp quan trọng khác của GS.TS Chu Tuấn Nhạ là việc kiện toàn bộ máy tổ chức và phát triển đội ngũ cán bộ. Các Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường tại địa phương được củng cố; hệ thống Hội đồng KH&CN từ Trung ương tới địa phương được phục hồi; hàng loạt lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ quản lý được tổ chức, góp phần nâng cao năng lực quản lý nhà nước về KH&CN trong giai đoạn hội nhập. GS.TS Chu Tuấn Nhạ cũng tham gia thành lập Hội đồng Chính sách KH&CN Quốc gia – cơ quan tư vấn chiến lược cho Thủ tướng, thể hiện tầm nhìn dài hạn của ông đối với việc kiến tạo thể chế KH&CN.

Cũng trong nhiệm kỳ của GS.TS Chu Tuấn Nhạ, hợp tác quốc tế về KH&CN và môi trường diễn ra sôi nổi hơn bao giờ hết. Việt Nam ký nhiều hiệp định song phương với các nước như Nga, Ba Lan, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Thụy Điển, Hà Lan, Úc… và tham gia sâu hơn vào các cơ chế ASEAN. 

Việc tổ chức Tuần lễ KH&CN ASEAN 1998 tại Hà Nội với hơn 500 đại biểu quốc tế là một dấu ấn cho thấy vai trò ngày càng lớn của Việt Nam trong hợp tác KH&CN khu vực ASEAN. Các chương trình hỗ trợ kỹ thuật quốc tế, từ ESCAP, FAO, UNDP đến JICA, SIDA, góp phần tăng cường năng lực nghiên cứu và quản lý của Việt Nam trong thời kỳ mới.

Không chỉ dành tâm huyết cho việc xây dựng thể chế, hoàn thiện chính sách và phát triển năng lực nghiên cứu, GS.TS Chu Tuấn Nhạ còn mang trong mình nỗi trăn trở sâu sắc về đội ngũ trí thức KH&CN của đất nước. 

GS.TS Chu Tuấn Nhạ nhiều lần nhấn mạnh rằng, trí thức khoa học không chỉ là những người có bằng cấp mà phải là những người dám dấn thân, dám chịu trách nhiệm, biết hiến kế vì sự phát triển quốc gia và sẵn sàng đổi mới để KH&CN thực sự trở thành động lực phát triển. 

Ông luôn tin rằng nguồn lực con người, đặc biệt là đội ngũ nhà khoa học là tài sản quý nhất của đất nước, và chỉ khi trí thức được tạo điều kiện phát huy trọn vẹn năng lực, KH&CN mới có thể đóng góp đầy đủ cho tương lai Việt Nam. Tinh thần ấy đến nay vẫn tiếp tục truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ làm khoa học.

Ngày 01/12/2025, GS.TS Chu Tuấn Nhạ qua đời tại Hà Nội, hưởng thọ 87 tuổi. 

Sự ra đi của ông để lại niềm tiếc thương sâu sắc đối với đội ngũ những người làm khoa học – công nghệ và những ai từng đồng hành cùng ông trong chặng đường xây dựng nền KH&CN nước nhà. 

Không chỉ là một nhà khoa học được đào tạo bài bản ở nước ngoài, một người lãnh đạo liêm chính và tận tụy, GS.TS Chu Tuấn Nhạ còn là người góp phần đặt nền móng cho hệ thống thể chế, chiến lược và cơ chế quản lý KH&CN hiện đại mà Việt Nam đang tiếp tục kế thừa và phát triển. 

Di sản mà GS.TS Chu Tuấn Nhạ để lại, từ Luật KH&CN năm 2000, các chiến lược phát triển dài hạn, đến việc kiện toàn bộ máy quản lý và thúc đẩy hợp tác quốc tế, vẫn tiếp tục tỏa sáng và đóng góp vào sự phát triển của đất nước hôm nay. 

Sự ra đi của GS.TS Chu Tuấn Nhạ không chỉ là mất mát của ngành khoa học và công nghệ, mà còn là sự lặng đi của một thế hệ trí thức tận hiến, để lại một tấm gương về trách nhiệm, tầm nhìn và lòng kiên định với con đường khoa học vì Tổ quốc.


Trung tâm Truyền thông KH&CN / mst.gov.vn

Các tin khác

Tin đọc nhiều