11h05: Chủ tịch Tổng LĐLĐVN Nguyễn Đình Khang đọc diễn văn bế mạc Đại hội.
Theo Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, sau 3 ngày làm việc tích cực, khẩn trương, nghiêm túc, trách nhiệm cao trước đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động cả nước, Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ XIII đã hoàn thành toàn bộ các nội dung của chương trình đề ra.
Đại hội vinh dự được đón Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng các lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, các vị khách quốc tế, các ban, bộ, ngành, đoàn thể, cơ quan Trung ương, các tỉnh, thành ủy, đảng ủy trực thuộc trung ương, các cán bộ công đoàn các thời kỳ đã tới dự phiên trọng thể và tham dự các hoạt động của Đại hội, mang đến Đại hội những tình cảm đặc biệt, sự cổ vũ, động viên to lớn đối với giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam.
Đại hội đã nghe Báo cáo tóm tắt Báo cáo của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa XII trình Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam; tham luận, thảo luận tại Đại hội và tổ chức 10 Diễn đàn chuyên đề đã làm sâu sắc thêm những định hướng lớn và các nhiệm vụ, giải pháp trong Báo cáo chính trị, củng cố thêm về lý luận và thực tiễn làm cơ sở nhanh chóng đưa Nghị quyết Đại hội vào cuộc sống.
Đại hội đã thông qua các văn kiện quan trọng: Báo cáo của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa XII trình tại Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam; Báo cáo kiểm điểm Ban Chấp hành khóa XII, nhiệm kỳ 2018-2023; Điều lệ Công đoàn sửa đổi, bổ sung.
Tại Đại hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu chỉ đạo, khẳng định rõ vị trí, vai trò của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam, biểu dương những đóng góp to lớn của đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức Công đoàn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hơn 90 năm qua và trong nhiệm kỳ 2018-2023.
Đồng thời nhấn mạnh những yêu cầu, nhiệm vụ mới đặt ra cho giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn trong thời gian tới; trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn xã hội quan tâm chăm lo, xây dựng, phát huy vai trò, sứ mệnh của giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Đại hội đã phát huy dân chủ bầu Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khoá XIII gồm 168 ủy viên, là những đồng chí có phẩm chất đạo đức, năng lực, tâm huyết với giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn để gánh vác trọng trách do Đảng, công nhân, viên chức, lao động giao phó.
Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa XIII đã họp phiên thứ nhất bầu Đoàn Chủ tịch, Thường trực Đoàn Chủ tịch, Ủy ban Kiểm tra và Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra. Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã ra mắt và nhận nhiệm vụ trước Đại hội.
Đại hội biểu thị quyết tâm của tổ chức Công đoàn thực hiện thành công mục tiêu: Đổi mới tổ chức và hoạt động công đoàn, xây dựng Công đoàn Việt Nam vững mạnh toàn diện, tập trung thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, trọng tâm là đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, người lao động; tích cực, chủ động tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội.
Hoàn thiện mô hình tổ chức, thu hút, tập hợp đông đảo người lao động gia nhập công đoàn; xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn có trí tuệ, bản lĩnh, tâm huyết, trách nhiệm, uy tín và phương pháp công tác tốt.
Đổi mới, tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, ý thức pháp luật của đoàn viên, người lao động; xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh, góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Đến cuối nhiệm kỳ, hướng đến kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập, Công đoàn Việt Nam vững mạnh toàn diện, là chỗ dựa tin cậy của người lao động, là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của Đảng, Nhà nước ta.
Nhận thức sâu sắc sứ mệnh và trọng trách nặng nề mà Đảng và đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động cả nước giao phó, Đại hội khẳng định quyết tâm của các cấp công đoàn, toàn thể cán bộ công đoàn nỗ lực rèn luyện, tận dụng thời cơ, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, chủ động đổi mới tổ chức và hoạt động công đoàn.
Tập trung đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, người lao động; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh; đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.
"Với những kết quả đạt được, chúng ta vui mừng báo cáo với lãnh đạo Đảng, Nhà nước và toàn thể đoàn viên, công nhân, viên chức và người lao động cả nước: Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam đã thành công tốt đẹp.
Để có được thành công đó, Đại hội chân thành cảm ơn các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, MTTQ Việt Nam, các ban, bộ, ngành Trung ương, đặc biệt là Ban Tổ chức Trung ương, Ban Dân vận Trung ương, các cấp, các ngành, đoàn thể, cán bộ công đoàn lão thành, các nhà khoa học, cán bộ quản lý, cán bộ công đoàn các cấp và đông đảo đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động đã dành nhiều tâm huyết, trí tuệ, chân thành, thẳng thắn chỉ đạo, đóng góp xây dựng các văn kiện trình Đại hội" - ông Nguyễn Đình Khang khẳng định.
Theo Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, thành công của Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ XIII cổ vũ mạnh mẽ cán bộ, đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động cả nước tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động công đoàn, tạo nên sức mạnh mới của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Với tinh thần và khí thế mới từ Đại hội, đề nghị các cấp công đoàn ngay sau Đại hội tổ chức tốt việc nghiên cứu, quán triệt, tuyên truyền rộng rãi trong toàn thể cán bộ, đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động cả nước về kết quả của Đại hội và các nhiệm vụ mà Đại hội đề ra.
Đồng thời, xây dựng chương trình hành động và các đề án, kế hoạch cụ thể để đưa Nghị quyết Đại hội vào thực tiễn cuộc sống, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong phong trào công nhân và hoạt động Công đoàn Việt Nam.
Đại hội kêu gọi cán bộ công đoàn, đoàn viên, người lao động cả nước đoàn kết một lòng, nêu cao tinh thần trách nhiệm, đổi mới sáng tạo, phát huy ý chí tự lực, tự cường, quyết tâm vượt mọi khó khăn, thử thách, tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ XIII, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
11h: 100% đại biểu biểu quyết thông qua Nghị quyết Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam.
10h50: Ông Nguyễn Mạnh Hà - Ủy viên Ban Chấp hành Tổng LĐLĐVN, Phó Chánh Văn phòng kiêm Giám đốc Văn phòng B - Nhà khách Tổng Liên đoàn trình bày dự thảo Nghị quyết Đại hội.
NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM LẦN THỨ XIII
Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ XIII diễn ra từ ngày 01 đến ngày 03 tháng 12 năm 2023, tại Thủ đô Hà Nội với sự tham dự của 1.095 đại biểu.
Đại hội vinh dự được đón:
- Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam,
- Đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
- Đồng chí Vương Đình Huệ, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,
- Cùng các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, lãnh đạo các ban, bộ, ngành, đoàn thể cơ quan Trung ương, lãnh đạo tỉnh, thành phố và các đồng chí nguyên lãnh đạo Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam qua các thời kỳ.
Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng phát biểu chỉ đạo Đại hội.
Sau khi thảo luận các văn kiện do Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn khóa XII trình, các ý kiến phát biểu của đại biểu Đại hội và ý kiến phát biểu chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam, nhiệm kỳ 2023 - 2028,
QUYẾT NGHỊ
I. Tiếp thu ý kiến phát biểu chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào Nghị quyết và các văn kiện của Đại hội, trên cơ sở đó, thông qua những nội dung cơ bản về đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ XII, nhiệm kỳ 2018 – 2023 và phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2023 - 2028 nêu trong Báo cáo của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa XII trình Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam. Cụ thể như sau:
1. Về kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII Công đoàn Việt Nam
Nhiệm kỳ 2018 - 2023, trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn, thách thức so với dự báo, song với sự quyết tâm của đội ngũ cán bộ công đoàn, đoàn viên, người lao động, hoạt động công đoàn tiếp tục có bước chuyển quan trọng, hoàn thành cơ bản các chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XII Công đoàn Việt Nam đề ra. Các cấp công đoàn đã chủ động, tích cực đổi mới và nâng cao chất lượng tham gia xây dựng chính sách, pháp luật liên quan đến người lao động và hoạt động công đoàn; phát hiện, đề xuất nhiều kiến nghị, góp ý xây dựng luật để chăm lo, bảo vệ tốt hơn quyền lợi cho người lao động. Vai trò của Công đoàn trong việc tham gia xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp tiếp tục được khẳng định. Các mô hình chăm lo cho đoàn viên, người lao động ngày càng thiết thực, hiệu quả được lan tỏa mạnh mẽ. Quy mô tổ chức được mở rộng, đã chủ động, linh hoạt trong công tác chỉ đạo và tổ chức thực hiện, xuất hiện nhiều mô hình mới, cách làm hiệu quả, được đoàn viên, người lao động, cấp ủy, chính quyền và người sử dụng lao động ghi nhận. Các cấp công đoàn ứng dụng rộng rãi công nghệ số và mạng xã hội để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, phổ biến pháp luật, truyền tải thông tin và tăng cường tương tác, chia sẻ, tạo sự gắn kết chặt chẽ hơn giữa đoàn viên, người lao động với tổ chức công đoàn. Công tác tham gia phòng, chống dịch bệnh COVID-19, đồng hành với đoàn viên, người lao động bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh để lại nhiều dấu ấn, nhiều mô hình sáng tạo trong công tác phòng, chống dịch và hỗ trợ đoàn viên, người lao động ra đời, phát huy hiệu quả thể hiện rõ vai trò của tổ chức công đoàn đồng hành cùng đoàn viên, người lao động, chia sẻ với doanh nghiệp vượt qua khó khăn. Các phong trào thi đua yêu nước do công đoàn phát động thu hút đông đảo cán bộ, đoàn viên, người lao động tham gia, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ của tổ chức công đoàn và phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Công tác phát triển đoàn viên, xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị được tập trung thực hiện. Hoạt động nữ công tiếp tục được đổi mới, có chuyển biến tích cực, góp phần chăm lo bảo vệ quyền lợi của người lao động, thúc đẩy bình đẳng giới và phòng chống bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em. Hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế của tổ chức công đoàn được tăng cường, linh hoạt, thích ứng với tình hình mới, theo đúng chủ trương, đường lối đối ngoại, chính sách của Đảng, Nhà nước. Công tác tài chính công đoàn đã được quan tâm chỉ đạo, từng bước được đổi mới theo định hướng chú trọng hiệu quả, công khai minh bạch và phù hợp với quy định của pháp luật. Công tác giám sát, nhất là giám sát chuyên đề, giám sát tài chính công đoàn được tăng cường; đồng thời thường xuyên chỉ đạo chấn chỉnh trong công tác quản lý, sử dụng tài chính, tài sản.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động công đoàn còn một số tồn tại, hạn chế: nhiệm vụ đại diện bảo vệ quyền và lợi ích đoàn viên, người lao động có mặt chưa đáp ứng yêu cầu của người lao động. Công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên, người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, bản lĩnh chính trị, giác ngộ giai cấp, tác phong công nghiệp có nơi chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là khu vực ngoài nhà nước. Phong trào thi đua còn dàn trải, phát triển chưa đồng đều ở các khu vực, đối tượng. Công tác phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở chưa tương xứng với sự phát triển của doanh nghiệp và lực lượng lao động. Hoạt động nữ công ở một số đơn vị chưa thường xuyên, thiết thực. Hoạt động đối ngoại có mặt còn chưa theo kịp với sự phát triển của Công đoàn Việt Nam và yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng. Vẫn còn tình trạng thất thu kinh phí, đoàn phí công đoàn. Công tác kiểm tra, giám sát có mặt chưa đáp ứng được yêu cầu xây dựng tổ chức công đoàn. Cơ chế phối hợp thực hiện nhiệm vụ giữa công đoàn ngành và công đoàn địa phương còn hạn chế.
2. Về mục tiêu, chỉ tiêu phấn đấu, khâu đột phá, các chương trình, nghị quyết chuyên đề thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam
2.1. Mục tiêu:
Đổi mới tổ chức và hoạt động công đoàn, xây dựng Công đoàn Việt Nam vững mạnh toàn diện, tập trung thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, trọng tâm là đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, người lao động; tích cực, chủ động tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội. Hoàn thành mô hình tổ chức, thu hút, tập hợp đông đảo người lao động tham gia công đoàn; xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn có trí tuệ, bản lĩnh, tâm huyết, trách nhiệm, uy tín và phương pháp công tác tốt. Đổi mới, tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, ý thức pháp luật của đoàn viên, người lao động; xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh, góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Đến cuối nhiệm kỳ, hướng đến kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập, Công đoàn Việt Nam vững mạnh toàn diện, là chỗ dựa tin cậy của người lao động, là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của Đảng và Nhà nước ta.
2.2. Về các chỉ tiêu phấn đấu
*) Chỉ tiêu hàng năm
- 85% trở lên đoàn viên, người lao động được tuyên truyền, phổ biến, học tập, quán triệt chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan đến lao động và công đoàn; Công đoàn tham gia thúc đẩy để ít nhất 65% công nhân lao động tại các doanh nghiệp tham gia học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp.
- 100% công đoàn cơ sở khu vực hành chính, sự nghiệp công lập, doanh nghiệp khu vực nhà nước, ít nhất 85% công đoàn cơ sở doanh nghiệp, đơn vị ngoài khu vực nhà nước tham gia với người sử dụng lao động ban hành, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
- Bình quân mỗi công đoàn cơ sở giới thiệu ít nhất 1 đoàn viên ưu tú cho Đảng xem xét, bồi dưỡng và kết nạp.
- 100% chủ tịch công đoàn cơ sở bầu mới được tập huấn, bồi dưỡng với hình thức phù hợp.
- Ít nhất 80% công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ; ít nhất 80% công đoàn cơ sở khu vực nhà nước và 55% công đoàn cơ sở ngoài khu vực nhà nước xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ.
- Ít nhất 80% công đoàn cơ sở doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước có đủ điều kiện thành lập ban nữ công quần chúng theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam.
- 100% công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở tổ chức thực hiện việc kiểm tra tài chính cùng cấp đúng tiến độ; ít nhất 10% công đoàn cơ sở doanh nghiệp được công đoàn cấp trên kiểm tra, giám sát tài chính.
*) Chỉ tiêu đến hết nhiệm kỳ
- Cả nước có 15 triệu đoàn viên công đoàn, thành lập tổ chức cơ sở ở 100% các doanh nghiệp có từ 25 lao động trở lên.
- Ít nhất 83% doanh nghiệp, đơn vị có tổ chức công đoàn đủ điều kiện theo quy định của pháp luật được công đoàn thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể theo quy định của pháp luật.
- Phấn đấu 90% trở lên số vụ việc về lao động khởi kiện tại tòa án được công đoàn hỗ trợ, tham gia tố tụng bảo vệ khi đoàn viên có yêu cầu.
2.3. Về khâu đột phá: Gồm 3 khâu đột phá
(1) Đẩy mạnh đối thoại, thương lượng tập thể, trọng tâm là tiền lương, tiền thưởng, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, an toàn vệ sinh lao động.
(2) Tập trung phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở ở các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước.
(3) Xây dựng đội ngũ chủ tịch công đoàn cơ sở đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nhất là chủ tịch công đoàn tại các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước.
2.4. Các chương trình, nghị quyết chuyên đề thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam: gồm 5 chương trình
(1) Nghị quyết đẩy mạnh công tác phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở tại các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước đến năm 2028, tầm nhìn đến năm 2033.
(2) Chương trình nâng cao hiệu quả công tác đối thoại, thương lượng tập thể giai đoạn 2023 - 2028.
(3) Chương trình xây dựng đội ngũ chủ tịch công đoàn cơ sở đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nhất là chủ tịch công đoàn doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước.
(4) Chương trình đẩy mạnh công tác truyền thông Công đoàn Việt Nam giai đoạn 2023-2028.
(5) Chương trình chuyển đổi số toàn diện trong hoạt động công đoàn.
II. Thông qua Báo cáo kiểm điểm của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa XII
Giao Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khoá XIII tiếp thu ý kiến của Đại hội, phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong nhiệm kỳ tới.
III. Đại hội đã thông qua Điều lệ Công đoàn Việt Nam đã được bổ sung, sửa đổi.
IV. Đại hội đã thông qua kết quả bầu Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa XIII, nhiệm kỳ 2023 – 2028 gồm 168 đồng chí. Tại Hội nghị lần thứ nhất, bầu 28 đồng chí tham gia Đoàn Chủ tịch; bầu đồng chí Nguyễn Đình Khang, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Đảng đoàn Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam giữ chức vụ Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa XIII và 5 đồng chí, gồm đồng chí Phan Văn Anh, đồng chí Ngọ Duy Hiểu, đồng chí Thái Thu Xương, đồng chí Huỳnh Thanh Xuân, đồng chí Nguyễn Xuân Hùng giữ chức Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn khóa XIII; bầu Ủy ban Kiểm tra Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khoá XIII gồm 17 đồng chí và bầu đồng chí Nguyễn Minh Dũng, Ủy viên Đoàn Chủ tịch làm Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khoá XIII.
Đại hội giao Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khoá XIII căn cứ Nghị quyết Đại hội, ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, ý kiến của đại biểu đại hội hoàn thiện văn kiện; xây dựng chương trình và kế hoạch hành động cụ thể để tổ chức thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phong trào công nhân, viên chức, lao động, hoạt động Công đoàn nhiệm kỳ 2023 - 2028.
Với phương châm “Đổi mới - Dân chủ - Đoàn kết - Phát triển”, Đại hội kêu gọi toàn thể cán bộ công đoàn, công chức, viên chức, công nhân, lao động cả nước phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang của giai cấp công nhân, tổ chức Công đoàn Việt Nam, nêu cao tinh thần đổi mới, sáng tạo, ý chí tự lực, tự cường, quyết tâm vượt mọi khó khăn, thử thách, tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ XIII, xây dựng Công đoàn Việt Nam vững mạnh, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
10h40: Đại hội chia tay các đồng chí không tái cử Ủy viên Ban Chấp hành, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Tổng LĐLĐ Việt Nam khóa XIII.
Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Nguyễn Đình Khang ghi nhận đóng góp của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa XII không tái cử khoá XIII; đồng thời bày tỏ mong muốn các đồng chí sẽ tiếp tục đóng góp các ý kiến để xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh.
10h30: Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai; Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Đỗ Văn Chiến; Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà; Ủy viên Trung ương Đảng, Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương Nguyễn Quang Dương tặng hoa chúc mừng Ban Chấp hành mới.
10h27: Chủ tịch Tổng LĐLĐVN Nguyễn Đình Khang thay mặt Ban Chấp hành Tổng LĐLĐVN khóa XIII phát biểu nhận nhiệm vụ.
Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Nguyễn Đình Khang cho biết: “Thay mặt 168 đồng chí vừa được Đại hội bầu vào Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa XIII, tôi xin trân trọng cảm ơn các đồng chí đại biểu, đại hội đã tín nhiệm bầu chúng tôi vào cơ quan lãnh đạo cao nhất của tổ chức Công đoàn Việt Nam giữa hai nhiệm kỳ đại hội”.
Ông Nguyễn Đình Khang nhấn mạnh, đây vừa là vinh dự to lớn, song cũng gắn với trọng trách nặng nề mà đại hội và cán bộ đoàn viên cả nước tin tưởng giao phó. Nhiệm kỳ 2023-2028, bên cạnh những thời cơ và nhiều thuận lợi, Công đoàn Việt Nam phải đối mặt với không ít khó khăn như báo cáo trình đại hội đã chỉ rõ. Để hoàn thành mục tiêu, chỉ tiêu của đại hội và triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đại hội đề ra, Ban Chấp hành khóa XIII sẽ kế thừa và tiếp tục phát huy những thành quả, kinh nghiệm qua các kỳ Đại hội Công đoàn Việt Nam, quán triệt sâu sắc các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, vượt mọi khó khăn, nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng và đoàn viên, người lao động cả nước giao phó.
“Chúng tôi xin hứa xây dựng tập thể Ban Chấp hành đoàn kết, thống nhất, phát huy dân chủ, tập trung trí tuệ trong lãnh đạo, điều hành. Thường xuyên học tập, rèn luyện, sâu sát với cơ sở, gần gũi với người lao động, xứng đáng là đại biểu, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của cán bộ, đoàn viên, người lao động.
Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa XIII kính mong tiếp tục nhận được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; sự giúp đỡ, ủng hộ quý báu của MTTQ Việt Nam, các ban, bộ, ngành đoàn thể Trung ương, cấp ủy, chính quyền các địa phương và sự tin tưởng, ủng hộ, đóng góp của đoàn viên, người lao động cả nước để giúp chúng tôi hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao”, ông Nguyễn Đình Khang phát biểu.
10h20: Phó Chủ tịch Tổng LĐLĐVN Thái Thu Xương báo cáo kết quả phiên họp thứ nhất Ban Chấp hành Tổng LĐLĐVN khóa XIII
Bà Thái Thu Xương thông tin, tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Tổng LĐLĐVN khóa XIII, bầu 28 đồng chí tham gia Đoàn Chủ tịch; bầu đồng chí Nguyễn Đình Khang, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Đảng đoàn Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam giữ chức Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa XIII và bầu 5 đồng chí, gồm: Đồng chí Phan Văn Anh, đồng chí Ngọ Duy Hiểu, đồng chí Thái Thu Xương, đồng chí Huỳnh Thanh Xuân, đồng chí Nguyễn Xuân Hùng giữ chức Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn khóa XIII; bầu Ủy ban Kiểm tra Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khoá XIII gồm 17 đồng chí và bầu đồng chí Nguyễn Minh Dũng, Ủy viên Đoàn Chủ tịch làm Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Đảm bảo các điều kiện hoạt động của tổ chức Công đoàn trong bối cảnh mới
10h05: Phó Chủ tịch Tổng LĐLĐVN Ngọ Duy Hiểu trình bày báo cáo tổng hợp kiến nghị của đoàn viên, người lao động và tổ chức Công đoàn với Đảng, Nhà nước.
Công đoàn Việt Nam nêu đề nghị Đảng và Nhà nước đảm bảo các điều kiện hoạt động của tổ chức Công đoàn trong bối cảnh mới; quan tâm tính đặc thù của tổ chức Công đoàn trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp tổ chức hoạt động.
Tại Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam diễn ra chiều 2.12, bên cạnh các kiến nghị liên quan đến tiền lương, an sinh, phúc lợi xã hội cho người lao động, ông Ngọ Duy Hiểu – Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã nêu lên nhiều kiến nghị liên quan đến hoạt động của Công đoàn Việt Nam.
Theo đó, đề nghị Quốc hội, Chính phủ quan tâm đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng pháp luật, trong đó có pháp luật liên quan đến quyền, lợi ích và trách nhiệm của người lao động và hoạt động công đoàn. Các dự án luật cần được khảo sát kỹ lưỡng, lấy ý kiến rộng rãi đối tượng chịu tác động trực tiếp; các quy định đảm bảo hài hòa lợi ích của người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước, quan tâm bảo vệ đối tượng yếu thế, thúc đẩy sự cân bằng, hài hòa trong quan hệ lao động; giúp người lao động được thụ hưởng thành quả xứng đáng với sự đóng góp của họ trong gần 40 năm đổi mới đất nước.
Đề nghị Đảng, Nhà nước quan tâm tính đặc thù của tổ chức Công đoàn trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp tổ chức hoạt động.
Cụ thể, Công đoàn Việt Nam vừa là tổ chức chính trị- xã hội trong hệ thống chính trị nước ta, vừa là tổ chức đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động:
(1) Công đoàn được giao quản lý tài chính, tài sản theo hệ thống ngành dọc, xuyên suốt từ Tổng Liên đoàn xuống đến công đoàn cơ sở. Công đoàn tự thu kinh phí, đoàn phí để tổ chức hoạt động và đảm bảo duy trì bộ máy cán bộ công đoàn chuyên trách, tất cả hưởng lương từ Tổng Liên đoàn. Đây cũng là thông lệ chung của các nước trên toàn thế giới để đảm bảo Công đoàn độc lập với cơ quan nhà nước theo tiêu chuẩn lao động quốc tế. Do vậy, ngoài cán bộ làm công tác phong trào phục vụ tổ chức, công đoàn cần lực lượng cán bộ chuyên môn cấp thiết làm công tác tài chính.
(2) Số lượng đoàn viên và công đoàn cơ sở tăng nhanh do yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
(3) Công đoàn đối mặt với việc cạnh tranh thành viên và tổ chức hoạt động trong bối cảnh pháp luật cho phép ra đời tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp. Đây là nhiệm vụ mới, khó khăn, nặng nề, chưa có tiền lệ, đòi hỏi tổ chức Công đoàn phải đổi mới mạnh mẽ, đảm bảo nguồn lực đủ mạnh và sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, thường xuyên của các cấp ủy đảng, sự phối hợp tích cực, trách nhiệm của các cấp chính quyền và các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Cùng với đó, Đảng và Nhà nước đảm bảo các điều kiện hoạt động của tổ chức Công đoàn trong bối cảnh mới
Với đặc thù tự đảm bảo thu- chi trong toàn hệ thống, thành viên và tổ chức phát triển nhanh, liên tục, nhiệm vụ ngày càng khó khăn, nặng nề, hệ thống Công đoàn đòi hỏi nguồn lực con người phải đủ về số lượng, không ngừng nâng cao về chất lượng để có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong bối cảnh mới. Các cấp công đoàn rất ủng hộ chủ trương của Đảng, Nhà nước về tinh giản biên chế, tinh gọn bộ máy theo tinh thần “giảm nơi thừa và người yếu”. Những năm gần đây, các cấp công đoàn bám sát chỉ đạo chung, đã nghiêm túc thực hiện giảm biên chế trong toàn hệ thống. Tuy nhiên, so với yêu cầu đẩy mạnh phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở và nâng cao chất lượng hoạt động công đoàn, thì biên chế cán bộ công đoàn chuyên trách hiện nay đang thiếu hụt lớn, nhiều công đoàn cấp trên cơ sở không đủ nhân lực để đến các doanh nghiệp vận động, phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở; một tỉ lệ không nhỏ LĐLĐ cấp huyện chỉ có từ 3-4 cán bộ, cá biệt có đơn vị chỉ có 2 cán bộ, dẫn đến việc phân công nhiệm vụ gặp khó khăn (mỗi cơ quan công đoàn đều cần phân công 01 kế toán, 01 thủ quỹ kiêm nhiệm các công việc khác), trong khi khó có thể phân công lãnh đạo kiêm nhiệm được.
Cá biệt một số cấp ủy địa phương lựa chọn cán bộ làm lãnh đạo công đoàn chưa phù hợp với năng lực, sở trường của cán bộ và yêu cầu ngày càng cao của tổ chức Công đoàn; có nơi trong thời gian ngắn thay đổi nhiều cán bộ công đoàn chủ chốt, nhất là người đứng đầu, dẫn đến chất lượng hoạt động của tổ chức Công đoàn bị ảnh hưởng.
Việc tuyển dụng cán bộ công đoàn ở các địa phương được tổ chức cùng đợt tuyển dụng cán bộ cho cơ quan của Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị với những yêu cầu, tiêu chuẩn, điều kiện cơ bản giống nhau trên cơ sở các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, có mặt không còn phù hợp với chuyên môn ngày càng sâu của cán bộ công đoàn trước yêu cầu mới. Hoạt động công đoàn ngày càng hội nhập sâu rộng, triển khai chủ yếu ở các doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước, đòi hỏi cán bộ công đoàn phải có kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm cần thiết; điều này phù hợp với việc tuyển dụng đội ngũ cán bộ công đoàn chủ yếu trưởng thành từ cơ sở, nhất là chủ tịch công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp.
Tại Đại hội này, Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam trân trọng đề nghị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng quan tâm có cơ chế phân bổ biên chế phù hợp với số lượng đảm bảo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và cho phép Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam sớm được thí điểm thực hiện cơ chế tuyển dụng cán bộ từ nguồn cán bộ công đoàn trưởng thành từ cơ sở, trong phong trào công nhân theo Nghị quyết số 02-NQ/TW của Bộ Chính trị “Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Công đoàn Việt Nam trong tình hình mới”.
Cùng với việc quan tâm, bổ sung biên chế và cho thí điểm cơ chế tuyển dụng cán bộ công đoàn, trân trọng đề nghị Đảng, Nhà nước trong việc sửa đổi Luật Công đoàn sắp tới cần quan tâm tiếp tục duy trì kinh phí công đoàn như Luật hiện hành, đảm bảo nguồn lực đủ mạnh để Công đoàn Việt Nam chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong bối cảnh cạnh tranh công đoàn; ban hành các quy định nâng cao hơn nữa vai trò, vị thế của tổ chức Công đoàn, nhất là cho phép công đoàn có quyền độc lập (chứ không chỉ tham gia) giám sát việc chấp hành pháp luật liên quan đến người lao động đối với người sử dụng lao động; trách nhiệm của người sử dụng lao động trong phối hợp với công đoàn thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở để đảm bảo quyền làm chủ của người lao động.
Đổi mới chế độ lương tối thiểu vùng, hướng tới lương đủ sống
Bên cạnh đó, Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Ngọ Duy Hiểu nêu nhiều kiến nghị liên quan đến tiền lương, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội cho người lao động.
Theo đó, cần đột phá trong tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách về giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đổi mới quản lý nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục nghề nghiệp, phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động, thực hiện đào tạo, đào tạo lại, đào tạo bổ sung, đào tạo kỹ năng, đào tạo công nghệ theo yêu cầu cách mạng công nghiệp lần thứ 4 cho công nhân.
Đẩy mạnh thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài, nhất là thu hút các dự án đầu tư của doanh nghiệp có công nghệ cao, năng lực quản trị tốt, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, có trách nhiệm xã hội. Hạn chế thu hút các doanh nghiệp thâm dụng lao động, ý thức chấp hành pháp luật thấp, trách nhiệm xã hội không cao.
Công đoàn cũng đề xuất tiếp tục nghiên cứu, đổi mới chế độ lương tối thiểu vùng, hướng tới lương đủ sống cho người lao động.
Huy động nguồn lực toàn xã hội thúc đẩy Đề án một triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021-2030; quan tâm quy hoạch, xây dựng trường học, cơ sở khám chữa bệnh nơi có đông công nhân; hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, giúp người lao động nhận rõ lợi ích, có niềm tin ở lại lâu dài với hệ thống bảo hiểm, đảm bảo quyền lợi an sinh xã hội cho người lao động không chỉ lúc đang làm việc mà cả lúc họ nghỉ hưu.
Ngoài ra, sớm nghiên cứu, sửa đổi, điều chỉnh thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi của công nhân, lao động.
Chính phủ giao Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với các bộ, ngành sớm nghiên cứu thực hiện nội dung Nghị quyết của Quốc hội khóa XIV (Nghị quyết số 101/2019/QH14) “…Giao Chính phủ căn cứ tình hình phát triển kinh tế - xã hội, nghiên cứu đề xuất giảm thời giờ làm việc bình thường đối với người lao động thấp hơn 48 giờ/tuần và báo cáo Quốc hội xem xét vào thời điểm thích hợp”, hướng tới đảm bảo sự công bằng giữa thời giờ làm việc của người lao động khu vực cơ quan, hành chính nhà nước (40 giờ/tuần) và khu vực doanh nghiệp (48 giờ/tuần); tạo điều kiện để người lao động nghỉ ngơi, tái sản xuất sức lao động, chăm sóc con cái, đảm bảo hạnh phúc gia đình.
Nghiên cứu tăng ngày nghỉ lễ, tết hàng năm vào thời điểm thích hợp, vì số ngày nghỉ này của nước ta đang thấp hơn bình quân chung của các nước Đông Nam Á và thế giới từ 5-6 ngày. Nghiên cứu bổ sung tăng 2 ngày nghỉ lễ dịp Quốc khánh (nghỉ từ mùng 2-5.9), tạo cơ hội cho công nhân được đưa con đến trường trong ngày khai giảng. Đây là nguyện vọng rất thiết tha của số đông công nhân có con đang tuổi đến trường.
Công đoàn cũng đề nghị cần tăng cường quản lý nhà nước, hạn chế tình trạng người sử dụng lao động vi phạm pháp luật đối với người lao động.
Thường xuyên thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các doanh nghiệp vi phạm pháp luật về lao động, công đoàn, bảo hiểm xã hội, an toàn vệ sinh lao động, nhất là các doanh nghiệp không hoặc chậm trả lương, trốn đóng bảo hiểm xã hội, để xảy ra tai nạn lao động, gây khó khăn cho hoạt động công đoàn và người lao động.
Khắc phục tình trạng bỏ qua hoặc xử lý nhẹ doanh nghiệp vi phạm pháp luật liên quan đến quyền, lợi ích người lao động của chính quyền một số địa phương vì quan niệm cho rằng đảm bảo môi trường đầu tư. Đảm bảo quản lý chặt chẽ, đúng pháp luật việc việc thành lập và hoạt động của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp, không để lợi dụng việc thành lập, hoạt động để xâm phạm quyền lợi người lao động, gây khó khăn cho doanh nghiệp, làm mất an ninh, trật tự.
Chính phủ sớm có chủ trương trình cấp có thẩm quyền có chính sách đặc thù để giải quyết, đảm bảo quyền lợi cho hơn 200 nghìn người lao động bị nợ bảo hiểm xã hội do doanh nghiệp giải thể, pháp sản, chủ bỏ trốn hoặc tái cơ cấu.
Cùng với đó, tăng cường hơn nữa trách nhiệm lãnh đạo của các cấp ủy và sự phối hợp của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các tổ chức, doanh nghiệp đối với hoạt động công đoàn
Lãnh đạo cấp ủy các cấp, nhất là những địa phương, ngành có đông công nhân, quan hệ lao động phức tạp cần định kỳ làm việc với ban thường vụ công đoàn các cấp; lựa chọn cán bộ có năng lực, trình độ, hiểu biết về công nhân, công đoàn, nắm vững chính sách, pháp luật, có phương pháp vận động quần chúng tốt làm cán bộ công đoàn, đảm bảo ổn định, ít nhất là 1/2 nhiệm kỳ.
Chú trọng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, giới thiệu vào cấp ủy các cấp tỉ lệ cần thiết cán bộ trưởng thành từ công nhân, phong trào công nhân và công đoàn. Những địa phương có đông công nhân cần quan tâm cơ cấu các đồng chí chủ tịch liên đoàn lao động là ủy viên thường vụ cấp ủy theo tinh thần Nghị quyết số 20-NQ/TW.
Chính quyền các cấp tích cực phối hợp với công đoàn trong việc chăm lo đời sống, bảo vệ quyền lợi người lao động; tuyên truyền, phổ biến pháp luật; giải quyết tranh chấp lao động tập thể. Người đứng đầu chính quyền định kỳ đối thoại để lắng nghe và giải quyết các vấn đề bức xúc của công nhân, lao động và công đoàn.
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị, các tổ chức và doanh nghiệp cần tích cực phối hợp hơn nữa với công đoàn các cấp trong việc chăm lo, đại diện, bảo vệ quyền lợi của đoàn viên, hội viên và người lao động.
“Những kiến nghị trên đây là mong muốn, nguyện vọng chung của đông đảo công nhân lao động và cán bộ công đoàn cả nước trân trọng gửi tới lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam. Kính mong được lãnh đạo Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương ghi nhận, quan tâm xem xét, giải quyết” – Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Ngọ Duy Hiểu nói.
10h04: Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai; Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Đỗ Văn Chiến; Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà; Ủy viên Trung ương Đảng, Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương Nguyễn Quang Dương đến dự phiên bế mạc đại hội.
9h40: Các đại biểu nhất trí thông qua dự thảo Điều lệ Công đoàn Việt Nam.
9h30: Ông Huỳnh Thanh Xuân – Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam báo cáo tiếp thu, tổng hợp ý kiến góp ý vào Điều lệ Công đoàn Việt Nam (sửa đổi bổ sung).
Ông Huỳnh Thanh Xuân cho biết, trong phiên làm việc chiều 1.12, tại 10 trung tâm thảo luận đã ghi nhận 36 ý kiến của đại biểu về Dự thảo Điều lệ Công đoàn Việt Nam (sửa đổi, bổ sung).
Hầu hết các ý kiến của đại biểu đều bày tỏ sự đồng tình và đánh giá cao quá trình nghiên cứu sửa đổi bổ sung Điều lệ Công đoàn Việt Nam của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn khoá XII.
Các ý kiến góp ý tập trung và các quy định về đối tượng gia nhập Công đoàn Việt Nam; quyền và nhiệm vụ của đoàn viên công đoàn; hình thức đình chỉ đối với cán bộ công đoàn; về nguyên tắc tổ chức và hoạt động công đoàn; về nhiệm vụ, quyền hạn của công đoàn cấp cơ sở, về mô hình tổ chức công đoàn và ý kiến liên quan đến tài chính, tài sản công đoàn.
Đoàn Chủ tịch Đại hội đề nghị tiếp thu các ý kiến về bổ sung quy định nhiệm vụ của Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở chỉ đạo hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân vào Dự thảo Điều lệ; tiếp thu, bổ sung vào Điểm b Khoản 2 Điều 16 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của công đoàn cơ sở thành viên, công đoàn bộ phận, tổ công đoàn do Đoàn Chủ tịch hướng dẫn chi tiết.
Tiếp thu, chỉnh sửa lại một số câu từ để các quy định của Điều lệ được đảm bảo chặt chẽ rõ ràng.
Đoàn Chủ tịch cũng tiếp thu một số ý kiến để nghiên cứu quy định trong hướng dẫn Điều lệ.
Một số ý kiến Đoàn Chủ tịch Đại hội đề nghị ghi nhận để nghiên cứu, nếu đủ cơ sở về lý luận và phù hợp thực tiễn thì ban hành quy định thực hiện, như: Ý kiến đề nghị xem xét kết nạp người là hiệu trưởng các trường ngoài công lập vào Công đoàn Việt Nam; ý kiến đề nghị đổi tên công đoàn viên chức để phù hợp với đối tượng tập hợp hiện nay có cả cán bộ, công chức, chứ không phải chỉ có viên chức.
Những ý kiến khác, Đoàn Chủ tịch Đại hội đề nghị Đại hội giữ nguyên như dự thảo điều lệ do về cơ bản đã thể hiện trong dự thảo điều lệ, phù hợp với các quy định khác và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn….
Báo cáo tiếp thu, giải trình vào dự thảo Báo cáo của Ban Chấp hành Tổng LĐLĐVN khóa XII trình Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam
9h15: Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Ngọ Duy Hiểu báo cáo tiếp thu, giải trình tập trung vào những nội dung lớn của dự thảo Báo cáo của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn khóa XII trình Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam.
Theo ông Ngọ Duy Hiểu, thảo luận dự thảo Báo cáo của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa XII trình Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng của Đại hội, thu hút sự quan tâm sâu sắc, trách nhiệm của các đại biểu dự Đại hội. Đại hội đã nhận được rất nhiều đăng ký tham luận, phát biểu của đại biểu, có 93 lượt ý kiến phát biểu tại 10 Diễn đàn chuyên đề, có 156 lượt ý kiến phát biểu tại 10 Trung tâm thảo luận, có 11 lượt ý kiến phát biểu tại hội trường.
Nhìn chung, không khí thảo luận sôi nổi, tâm huyết, thẳng thắn, trách nhiệm. Nội dung các ý kiến phong phú, toàn diện, trí tuệ. Các ý kiến thảo luận đã phân tích làm sáng tỏ, sâu sắc thêm và bổ sung một số nội dung quan trọng về vấn đề chung và những vấn đề cụ thể.
Về 10 diễn đàn thảo luận chuyên đề trước khi khai mạc chính thức Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam, ông Ngọ Duy Hiểu cho biết, đây là điểm mới của Đại hội kỳ này nhằm lấy ý kiến của đông đảo cán bộ, đoàn viên tiêu biểu cả nước về 10 vấn đề lớn, nhiệm vụ trọng tâm đặt ra đối với Công đoàn Việt Nam hiện nay.
Thông qua trao đổi, thảo luận sôi nổi, đã có nhiều đề xuất sáng kiến nhằm tiếp tục đổi mới toàn diện hoạt động Công đoàn Việt Nam để thích ứng với bối cảnh tình hình mới; góp phần xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, hiện đại; đóng góp trực tiếp và nhiều hơn nữa vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.
Các ý kiến góp ý từ các Diễn đàn sẽ được Đoàn Chủ tịch, Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nhiệm kỳ 2023 – 2028 tiếp thu vào quá trình xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam và các chương trình trọng tâm, nghị quyết chuyên đề của nhiệm kỳ, đồng thời phục vụ cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động công đoàn nhiệm kỳ 2023–2028.
Về kết quả thực hiện nghị quyết Đại hội XII Công đoàn Việt Nam, các đại biểu đánh giá Báo cáo chính trị trình Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam được chuẩn bị kỹ lưỡng, công phu, có nhiều đổi mới từ kết cấu đến nội dung.
Đồng thời, đã đánh giá thực chất kết quả hoạt động công đoàn đạt được nhiệm kỳ qua, phản ánh được ý kiến, nguyện vọng của đông đảo cán bộ, đoàn viên, người lao động cả nước; chỉ rõ những khuyết điểm, yếu kém, rút ra 5 bài học kinh nghiệm cụ thể, sâu sắc.
Một số ý kiến đề nghị cụ thể như sau:
Đề nghị đánh giá sâu hơn chất lượng hội nghị cán bộ, công chức, viên chức, hội nghị người lao động, khẳng định rõ hơn vai trò của công đoàn trong thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; chỉ đạo hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân; đánh giá sâu hơn về mạng lưới an toàn, vệ sinh viên; về nỗ lực của các cấp công đoàn trong phòng, chống dịch bệnh COVID–19; về kết quả đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Đồng thời cần đánh giá sâu sắc hơn kết quả công tác nắm bắt dư luận xã hội, việc triển khai thực hiện Nghị quyết 35 của Bộ Chính trị; đánh giá sâu và đầy đủ hơn về công tác truyền thông Công đoàn vì công tác này nhiệm kỳ qua có nhiều đổi mơi, đạt kết quả nổi bật; bổ sung nội dung Công đoàn tham gia xây dựng nông thôn mới.
Đề nghị bổ sung thêm đánh giá về Chương trình số 1306/CTr-TLĐ ngày 15.8.2019 về “Công đoàn Việt Nam đồng hành với Chính phủ nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và phát triển bền vững đất nước giai đoạn 2019-2023”.
Đồng thời có ý kiến đề nghị bổ sung về việc kết quả thực hiện Chương trình “75 nghìn sáng kiến vượt khó, phát triển” và Chương trình “1 triệu sáng kiến, nỗ lực vượt khó, sáng tạo quyết tâm chiến thắng đại dịch COVID-19” đã góp phần thực hiện Chương trình số 1306/CTr-TLĐ ngày 15.8.2019 về “Công đoàn Việt Nam đồng hành với Chính phủ nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và phát triển bền vững đất nước giai đoạn 2019-2023”.
Đoàn Chủ tịch ghi nhận, nghiên cứu, chắt lọc, tiếp thu để hoàn thiện nội dung báo cáo trước khi phát hành.
Về hạn chế, khuyết điểm và nguyên nhân, ông Ngọ Duy Hiểu cho biết, có ý kiến đề nghị nên đánh giá nguyên nhân chủ quan trước rồi mới đến nguyên nhân khách quan. Đoàn Chủ tịch đề xuất giữ nguyên và giải trình như sau: Việc kiểm điểm nguyên nhân khách quan rồi đến nguyên nhân chủ quan để đảm bảo tương thích với việc đánh giá bối cảnh tình hình từ quốc tế, trong nước rồi đến nội tại tổ chức.
Có ý kiến đề nghị cân nhắc việc đưa hạn chế: “Quy chế dân chủ ở cơ sở chưa được thực hiện tốt ở không ít cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp” vào báo cáo vì trên thực tế, nội dung này được thực hiện tại các công đoàn cơ sở rất tích cực.
Đoàn Chủ tịch đề xuất giữ nguyên và giải trình như sau: Triển khai thực hiện quy chế dân chủ cơ sở là nhiệm vụ quan trọng của tổ chức Công đoàn. Thời gian vừa qua, việc triển khai thực hiện hiện dân chủ cơ sở có những chuyển biến tích cực, vai trò của công đoàn, đặc biệt là công đoàn cơ sở trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tiếp tục được nâng lên, tuy nhiên so với yêu cầu các Nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước thì nhiều nơi còn thực hiện chưa tốt, chưa thực chất, cần nỗ lực nhiều hơn nữa để đáp ứng mong muốn, nguyện vọng của người lao động và yêu cầu của Đảng.
Có ý kiến đề nghị bổ sung nguyên nhân đối với cấp cơ sở hiện nay cán bộ thay đổi quá nhiều: Đoàn Chủ tịch đề xuất giữ nguyên và xin giải trình: hiện nay trong dự thảo Báo cáo đã đề cập: “Đội ngũ cán bộ công đoàn chuyên trách thiếu, nhiều biến động, ở cấp cơ sở chủ yếu kiêm nhiệm, hưởng lương của doanh nghiệp, thường xuyên thay đổi trong khi công tác tập huấn, bồi dưỡng còn hạn chế”.
Về mục tiêu, chỉ tiêu và khâu đột phá, phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ 2023-2028, trên cơ sở gợi ý của Đoàn Chủ tịch Đại hội, đã có 135 lượt ý kiến thảo luận, đưa ra nhiều giải pháp, kiến nghị xác đáng, tổng hợp một số nội dung cụ thể.
Theo đó, các đại biểu đánh giá phần phương hướng, nhiệm vụ giải pháp hoạt động công đoàn trong 5 năm tới của dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam được nghiên cứu, xây dựng công phu, bài bản, toàn diện; đã cụ thể hóa các nội dung của Nghị quyết số 02 ngày 12.6.2021 của Bộ Chính trị “về đổi mới tổ chức và hoạt động của Công đoàn Việt Nam trong tình hình mới”; Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2021-2030, những điểm mới của Bộ luật Lao động 2019 và các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, để có những dự báo về tình hình.
Từ đó định hướng các nhiệm vụ, giải pháp trên từng lĩnh vực cụ thể, đặc biệt thống nhất cao 10 chỉ tiêu, 3 khâu đột phá trong hoạt động công đoàn để tập trung thực hiện trong thời gian tới đạt kết quả.
Đề nghị Công đoàn phối hợp tham gia triển khai 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội
Tiếp đó, Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Ngọ Duy Hiểu đã báo cáo về việc tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đoàn viên, người lao động.
Theo đó, một số ý kiến đề nghị cần có các giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác tham gia xây dựng chính sách pháp luật của tổ chức Công đoàn, đặc biệt là Luật Công đoàn (sửa đổi), Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi)...
Đồng thời nâng cao trình độ cán bộ làm chính sách, tham gia xây dựng pháp luật; nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ đại diện, bảo vệ tại tòa án của tổ chức công đoàn; đào tạo đội ngũ luật sư công đoàn.
Tăng cường công tác phối hợp kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật lao động; về phối hợp triển khai có hiệu quả Luật thực hiện dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của người lao động; về tăng cường thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể, huy động các nguồn lực để chăm lo, hỗ trợ cho người lao động; rà soát, ký kết các thỏa thuận hợp tác có chất lượng, nâng cao phúc lợi cho người lao động; phối hợp tham gia triển khai Đề án “Đầu tư xây dựng ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021-2030”.
Ông Ngọ Duy Hiểu cho biết, Đoàn Chủ tịch ghi nhận, nghiên cứu, chắt lọc, tiếp thu để hoàn thiện nội dung Báo cáo trước khi phát hành và trong quá trình chỉ đạo và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam.
Quan tâm xây dựng vị trí việc làm và vấn đề biên chế của cán bộ công đoàn
Theo ông Ngọ Duy Hiểu, một số ý kiến đề nghị cần bổ sung các giải pháp, nguồn lực cho công tác phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở để đạt được mục tiêu nhiệm kỳ đạt 15 triệu đoàn viên, khi giao chỉ tiêu cần lưu ý tới nguồn lao động còn lại để giao cho hợp lý, tránh chỉ tiêu giao mà đơn vị không có khả năng thực hiện được trên thực tế vì hết nguồn.
Cần nghiên cứu cụ thể hóa nội dung ưu tiên về chuyển đổi số trong đăng ký, gia nhập, cấp thẻ đoàn viên theo hướng thuận tiện, linh hoạt; sớm nghiên cứu mô hình, hoạt động nghiệp đoàn phù hợp để tập hợp đối với người lao động sử dụng các ứng dụng công nghệ thông tin như Grab, Bee... tăng cường, có các giải pháp hiệu quả trong bảo vệ cán bộ công đoàn cơ sở, có cơ chế đãi ngộ khuyến khích tạo động lực đối với đội ngũ cán bộ công đoàn cơ sở kiêm nhiệm nhất là ở khu vực ngoài nhà nước.
Quan tâm có giải pháp hiệu quả để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công đoàn, nhất là cán bộ công đoàn cơ sở, tăng cường đào tạo kỹ năng hoạt động công đoàn gắn với thực tiễn tình hình doanh nghiệp, tình hình kinh tế- xã hội ở địa phương, cơ sở.
Thường xuyên tổ chức tập huấn các nội dung chuyên đề về thỏa ước lao động tập thể, đối thoại, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở cho đội ngũ cán bộ công đoàn cơ sở vì đây đều là các nội dung trọng tâm, cốt lõi, thiết thực đối với cơ sở, đồng thời nhằm thực hiện được khâu đột phá tập trung đối thoại, thương lượng theo dự thảo báo cáo.
Quan tâm đến việc xây dựng vị trí việc làm và vấn đề biên chế của cán bộ công đoàn nhất là cán bộ công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở vì đây là đội ngũ trực tiếp hỗ trợ cho cán bộ công đoàn cơ sở trong triển khai nhiệm vụ; xem xét kiến nghị về việc cắt giảm bớt một số thủ tục, giấy tờ trong giới thiệu đoàn viên ưu tú là công nhân, lao động khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước cho Đảng bồi dưỡng kết nạp đảm bảo thuận tiện, khả thi.
Đoàn Chủ tịch ghi nhận, nghiên cứu, chắt lọc, tiếp thu để hoàn thiện nội dung Báo cáo trước khi phát hành và trong quá trình chỉ đạo và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam.
9h10: Ông Nguyễn Mạnh Hà - Ủy viên Ban Chấp hành, Phó Chánh Văn phòng kiêm Giám đốc Văn phòng B - Nhà khách Tổng Liên đoàn thông báo điện, thư chúc mừng của các tổ chức Công đoàn Quốc tế gửi tới đại hội.
Tính đến ngày 3.12, Đại hội đã nhận được thư, điện chúc mừng của 35 tổ chức, bạn bè Công đoàn quốc tế từ châu Âu, châu Á, châu Mỹ, châu Úc và các Công đoàn quốc tế, bày tỏ tình hữu nghị và thể hiện sự quan tâm sâu sắc đối với Công đoàn Việt Nam.
Tới dự tại Đại hội có đại diện Liên hiệp Công đoàn Thế giới, Hội đồng Công đoàn ASEAN, Trung ương Liên hiệp Công đoàn Lào, Tổng Công hội Trung Quốc, Trung tâm Những người lao động Cuba và đại diện các tổ chức quốc tế tại Việt Nam.
Chuyển đổi số trong hoạt động Công đoàn
9h: Ông Phạm Quang Hưởng - Phó Chủ tịch Công đoàn Thông tin và Truyền thông Việt Nam tham luận: Một số giải pháp đột phá đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số trong hoạt động của Công đoàn Việt Nam
Ông Phạm Quang Hưởng cho biết, để thực hiện thành công Chương trình chuyển đổi số Quốc gia đòi hỏi các bộ, ngành, đoàn thể, địa phương phải quyết tâm thực hiện để tạo bước đột phá. Và Công đoàn Việt Nam không thể nằm ngoài xu thế đó, phải từng bước thực hiện chuyển đổi số trong hoạt động của tổ chức Công đoàn góp phần phát triển Chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số, đồng thời nâng cao vị thế của tổ chức Công đoàn trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Chuyển đổi số làm tăng sức chống chịu của nền kinh tế vì môi trường số thì không khoảng cách, không tiếp xúc. Chuyển đổi số là phát triển bao trùm vì bất kỳ ai, ở bất kỳ đâu, nếu có sóng di động và điện thoại thông minh thì đều có thể tiếp cận được mọi dịch vụ số, không ai bị bỏ lại phía sau.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện chuyển đổi số trong hoạt động Công đoàn thời gian qua ở các cấp còn một số tồn tại, hạn chế như:
- Nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của chuyển đổi số trong một số cán bộ Công đoàn các cấp còn hạn chế dẫn đến thiếu quyết tâm, quyết liệt trong triển khai thực hiện. Chưa xây dựng được đội ngũ cán bộ có trình độ, am hiểu về công nghệ thông tin trong các tổ chức Công đoàn để làm hạt nhân triển khai thực hiện chuyển đổi số. Công tác tuyên tryền, tổ chức tập huấn, đào tạo về chuyển đổi số cho cán bộ làm công tác Công đoàn chưa được thường xuyên, liên tục...
- Việc triển khai hệ thống văn bản điện tử mới chỉ đang triển khai ở cấp Tổng Liên đoàn đến các Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố; Công đoàn ngành Trung ương và tương đương, chưa triển khai được đến các tổ chức Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở và Công đoàn cơ sở. Nhiều tổ chức Công đoàn vẫn còn điều hành thủ công, sử dụng văn bản giấy.
Để thực hiện thành công "Đề án chuyển đổi số của Tổng Liên đoàn giai đoạn 2022- 2025, tầm nhìn đến năm 2030" cũng như đóng góp vào nội dung các Văn kiện Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam, Công đoàn Thông tin và Truyền thông Việt Nam đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số trong hoạt động của Công đoàn Việt Nam như sau:
Thứ nhất, về mặt nhận thức và quyết tâm chính trị
Chuyển đổi số thì 70% là quyết tâm chính trị, là sự vào cuộc và triển khai quyết liệt của lãnh đạo Công đoàn các cấp. Công nghệ chỉ chiếm 30%. Chuyển đổi số trước tiên là chuyển đổi nhận thức, nhận thức đóng vai trò quyết định trong chuyển đổi số. Công nghệ chỉ là kỹ thuật, công cụ phục vụ quá trình chuyển đổi số. Do vậy, trong quá trình chuyển đổi số tổ chức Công đoàn thì việc tuyên truyền, quán triệt để có nhận thức đúng đắn về chuyển đổi số phải được quan tâm hàng đầu.
Thứ hai, về tổ chức triển khai thực hiện
Nhiều người lo lắng và thực tế có nhiều cơ quan, đơn vị rất lúng túng khi đã nhận thức rõ chuyển đổi số là quan trọng, là cần thiết, là cấp bách, nhưng làm thế nào? Câu trả lời là: Khi đã có nhận thức rõ ràng và quyết tâm chính trị về chuyển đổi số thì bước tiếp theo là chúng ta chọn một số doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam làm đối tác.
Việt Nam là một trong những quốc gia có đội ngũ doanh nghiệp công nghệ số mạnh và có trình độ cao. Đội ngũ doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam hiện nay đủ sức giải quyết các bài toán chuyển đổi số của Công đoàn trong một thời gian ngắn cũng như việc đảm bảo hạ tầng số, đảm bảo an toàn thông tin.
Thứ ba, một số đề xuất cụ thể
Một là, phát triển một nền tảng dùng chung. Công đoàn Việt Nam là một tổ chức rộng lớn, với trên 123.000 công đoàn cơ sở và hơn 11 triệu đoàn viên. Nếu không dùng công nghệ thì rất khó quản lý và phát triển. Chúng ta nên bắt đầu chuyển đổi số bằng việc phát triển một nền tảng dùng chung cho tất cả các cấp Công đoàn.
Hai là, sử dụng dữ liệu lớn, dữ liệu tập trung. Với hơn 11 triệu đoàn viên thì phải xây dựng Cơ sở dữ liệu đoàn viên Công đoàn một cách tập trung và xuyên suốt, có sự phân cấp, phân quyền rõ ràng đối với từng cấp Công đoàn. Việc xây dựng Cơ sở dữ liệu đoàn viên Công đoàn có thuận lợi rất lớn là dùng lại được nhiều trường thông tin của Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và bảo hiểm.
Ba là, sử dụng trí tuệ nhân tạo, trợ lý ảo hỗ trợ đoàn viên và cán bộ công đoàn.
Chỉ có khoảng 7.000 cán bộ Công đoàn chuyên trách. Như vậy, bình quân mỗi cán bộ phụ trách hơn 1.500 đoàn viên thì rất thiếu lực lượng tư vấn và trợ giúp pháp lý cho các đoàn viên, người lao động. Giải pháp cho bài toán này là sử dụng trợ lý ảo. Tổng Liên đoàn cần xây dựng một trợ lý ảo.
Trợ lý ảo có thể hoạt động liên tục không kể ngày đêm, nhiều người có thể hỏi cùng lúc, bằng ngôn ngữ nói tự nhiên và thông qua điện thoại thông minh. Toàn bộ tri thức hỗ trợ pháp lý của Công đoàn sẽ được đưa vào trợ lý ảo này.
Bốn là, xây dựng nền tảng đào tạo trực tuyến. Việc xây dựng một nền tảng đào tạo trực tuyến, biến nền tảng này thành một mạng xã hội học tập, một mạng xã hội để đoàn viên, người lao động giao lưu, trao đổi, học hỏi nhau, bày tỏ tâm tư, nguyện vọng; biến nền tảng này thành một sàn thương mại điện tử để đoàn viên, người lao động có thể mua được hàng hóa có xuất xứ, có chất lượng, giá cả phù hợp và lại bán được cả sản phẩm làm thêm của mình… là những gợi mở, những bài toán đặt ra đối với chuyển đổi số của Công đoàn Việt Nam.
Đề xuất có cơ chế khen thưởng đối với những đơn vị, cá nhân làm tốt công tác kiểm tra, giám sát
8h46: Bà Lê Thị Sương Mai - Chủ tịch Liên đoàn Lao động Thành phố Cần Thơ trình bày tham luận: “Phát huy hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, góp phần xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh”
Theo Chủ tịch Liên đoàn Lao động Thành phố Cần Thơ, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tầm quan trọng của công tác kiểm tra: “Nếu tổ chức việc kiểm tra cho chu đáo thì cũng như có ngọn đèn “pha”. Bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm và khuyết điểm, bao nhiêu cán bộ chúng ta đều thấy rõ. Đại hội XII Công đoàn Việt Nam đã khẳng định "Tăng cường công tác kiểm tra của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Ủy ban Kiểm tra công đoàn các cấp để ngăn ngừa vi phạm, kịp thời phát hiện những nhân tố mới để nhân rộng và nhanh chóng khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm, những vi phạm của tổ chức và đoàn viên. Kiện toàn bộ máy Ủy ban Kiểm tra công đoàn các cấp để đảm bảo tương xứng với nhiệm vụ, quyền hạn được giao".
Nhận thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương, các nghị quyết của Công đoàn Việt Nam về công tác, giám sát; trong quá trình triển khai thực hiện, Ban Chấp hành Liên đoàn lao động thành phố luôn coi trọng, đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn hóa, nâng cao chất lượng đội ngũ công đoàn các cấp, nhất là nghiệp vụ về công tác kiểm tra, giám sát cho cán bộ cho công đoàn cơ sở, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và hội nhập quốc tế. Thực tiễn triển khai thời gian qua cho thấy, Liên đoàn Lao động thành phố đã thường xuyên rà soát củng cố, kiện toàn Ủy ban Kiểm tra các cấp, toàn thành phố có 546 ủy ban kiểm tra với tổng số cán bộ làm công tác kiểm tra 2.295 nhân sự, định kỳ tổ chức lớp tập huấn 1 kỳ/năm, nhiệm kỳ qua tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho hơn 3.711 lượt cán bộ CĐCS tham gia và cử cán bộ công đoàn làm công tác kiểm tra tham gia đầy đủ các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác kiểm tra, giám sát do Tổng Liên đoàn tổ chức; thường xuyên thỉnh thị, xin ý kiến, hướng dẫn của Ủy ban Kiểm tra Công đoàn cấp trên khi có vấn đề phát sinh.
Qua công tác bồi dưỡng tập huấn nghiệp vụ đã giúp cho cán bộ làm công tác kiểm tra Công đoàn nắm vững hơn chuyên môn nghiệp vụ về công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức công đoàn, giúp cán bộ Ủy ban Kiểm tra công đoàn các cấp có kỹ năng để thực hiện tốt nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam.
Đồng thời để nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra công đoàn trong việc thực hiện quy trình các cuộc kiểm tra, giám sát; thực hiện giải quyết và tham gia với các cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo góp phần bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, người lao động và thuận tiện cho việc tra cứu các văn bản, quy định hiện hành về công tác kiểm tra, giám sát. Kiểm tra, giám sát, công đoàn cùng cấp và cấp dưới khi tổ chức, cán bộ và đoàn viên có dấu hiệu vi phạm Điều lệ, Nghị quyết và quy định của Công đoàn; Kiểm tra việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản của công đoàn cùng cấp và cấp dưới; Giám sát tổ chức công đoàn, Ủy viên BCH, cán bộ công đoàn cùng cấp và cấp dưới về thực hiện Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định của tổ chức công đoàn và quy định của Đảng, Nhà nước; Tham mưu xử lý kỷ luật tổ chức công đoàn, cán bộ đoàn viên công đoàn cùng cấp và cấp dưới khi có vi phạm theo quy định; Giải quyết và tham gia giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của đoàn viên, người lao động theo quy định của pháp luật. Khi phát hiện thấy có những biểu hiện, những hiện tượng mà thông qua đó các tổ chức, cán bộ và đoàn viên có thể dẫn đến vi phạm hoặc đã vi phạm nhưng chưa được phát hiện, chưa được kết luận.
Công tác kiểm tra, giám sát khi có dấu hiệu vi phạm nhằm kết luận rõ đúng, sai, xác định rõ vi phạm, thông qua đó có tác dụng giáo dục, ngăn ngừa vi phạm, kịp thời nhắc nhở, chấn chỉnh những biểu hiện vi phạm, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cán bộ đoàn viên trong việc chấp hành, tổ chức thực hiện nghiêm Điều lệ Công đoàn Việt Nam, nghị quyết, chỉ thị và các quy định của công đoàn, góp phần xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những quả tích cực, công tác kiểm tra, giám vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập, hạn chế cần khắc phục như: Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Ủy ban kiểm tra công đoàn các cấp chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng công tác kiểm tra, giám sát khi có dấu hiệu vi phạm, dẫn đến việc thiếu chủ động trong việc xây dựng kế hoạch, chương trình, khai thác các kênh thông tin, chủ động phát hiện các trường hợp có dấu hiệu vi phạm. Hầu hết, cán bộ Ủy ban Kiểm tra là kiêm nhiệm, thường có sự thay đổi; cán bộ kiểm tra còn yếu về trình độ nghiệp vụ, năng lực, kinh nghiệm, không nắm vững Điều lệ, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị và các quy định của tổ chức công đoàn; Khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm thiếu kiên quyết, còn biểu hiện ngại va chạm, nể nang trong thực hiện nhiệm vụ nên việc hoàn thành nhiệm vụ được giao chưa đáp ứng đầy đủ, kịp thời yêu cầu, nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát Công đoàn…
Bà Lê Thị Sương Mai cho biết, để đáp ứng yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động công đoàn trong tình hình mới. Liên đoàn Lao động thành phố đề ra nhiều giải pháp, trọng tâm, đồng bộ để khắc phục và nâng cao năng lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát như sau: Thứ nhất, tiếp tục quán triệt, tuyên truyền và thực hiện có hiệu quả Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định của tổ chức công đoàn về công tác kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ công đoàn nói chung và cán bộ Ủy ban kiểm tra nói riêng về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát, giúp cho cán bộ công đoàn các cấp hiểu rõ đây là một trong những nhiệm vụ xây dựng và phát triển niềm tin của đoàn viên, củng cố, kiện toàn và xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới phương pháp hoạt động của ủy ban kiểm tra, tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng các cuộc kiểm tra; lựa chọn nội dung kiểm tra phù hợp, có trọng tâm, trọng điểm; bảo đảm nguyên tắc và quy trình kiểm tra, vận dụng đồng bộ và sáng tạo các hình thức, phương pháp kiểm tra, nâng cao trách nhiệm của đoàn kiểm tra và trưởng đoàn kiểm tra; giám sát chặt chẽ việc thực hiện kết luận, kiến nghị của đoàn kiểm tra. Thực hiện nghiêm túc về tổ chức, cán bộ kiểm tra và hoạt động kiểm tra, giám sát đảm bảo theo đúng quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam, Nghị quyết số 6b/NQ-TLĐ của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về “Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động ủy ban kiểm tra công đoàn”.
Thứ ba, đổi mới và nâng cao nhận thức của Công đoàn các cấp về vai trò, ý nghĩa và tác dụng của công tác kiểm tra. Vai trò của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Công đoàn các cấp trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kiểm tra. Tăng cường công tác khai thác và xử lý thông tin qua nhiều kênh, nhất là qua phản ánh của đoàn viên để kịp thời phát hiện những dấu hiệu vi phạm.
Thứ tư, thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tự rèn luyện, nâng cao kiến thức về lĩnh vực kinh tế, pháp luật, văn hóa xã hội, có đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ kiểm tra phải để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đồng thời xây dựng đội ngũ cán bộ Ủy ban kiểm tra công đoàn có phẩm chất và đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, hiểu biết sâu sắc về tổ chức Công đoàn, về Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định của tổ chức công đoàn và quy định của Đảng, Nhà nước, có kỹ năng, năng lực kiểm tra, giám sát; có trách nhiệm, khách quan và trung thực, thẳng thắng, linh hoạt khi thực hiện nhiệm vụ.
Để góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ XIII, thời gian tới, Ủy ban Kiểm tra công đoàn các cấp quyết tâm đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát nhằm phát hiện, uốn nắn kịp thời những dấu hiệu vi phạm nhằm góp phần xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh trong tình hình mới. Đề nghị Tổng Liên đoàn có cơ chế khen thưởng đối với những đơn vị, cá nhân làm tốt công tác kiểm tra, giám sát vào quy chế khen thưởng của tổ chức công đoàn; Thường xuyên mở các lớp tập huấn nâng cao chất lượng hoạt động về công tác kiểm tra công đoàn nhằm giúp cán bộ làm công tác kiểm tra nắm vững phương pháp hoạt động, thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Công đoàn; Tăng cường phối hợp với các cơ quan chức năng ở Trung ương có hướng dẫn, cơ chế trong việc giải quyết vụ việc không chấp hành đúng quy định của pháp luật, có dấu hiệu vi phạm pháp luật chiếm dụng kinh phí công đoàn, quản lý sử dụng tài chính công đoàn không đúng quy định pháp luật.
Đề xuất lao động nữ được nghỉ hưu sớm hơn so với lộ trình tuổi quy định
8h35: Bà Phạm Thị Thanh Tâm - Chủ tịch Công đoàn Dệt May Việt Nam tham luận chủ đề: Công đoàn Dệt May Việt Nam (CĐDMVN) với công tác chăm lo, bảo vệ quyền lợi lao động nữ, xây dựng gia đình đoàn viên, người lao động no ấm, hạnh phúc.
Bà Phạm Thị Thanh Tâm nhận định, ngành Dệt may Việt Nam là ngành đông lao động nữ (chiếm trên 67% tổng lao động toàn ngành), CĐDMVN luôn xác định chăm lo, bảo vệ quyền lợi và đồng hành cùng lao động nữ trong xây dựng gia đình no ấm, hạnh phúc là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Nhiệm kỳ vừa qua đã đánh dấu nhiều mô hình hay, giải pháp mới của Công đoàn ngành trong lĩnh vực này.
Cụ thể: Chăm lo, bảo vệ quyền lợi cho lao động nữ bằng những việc làm thiết thực, CĐDMVN luôn chú trọng tuyên truyền, phổ biến chính sách, kiến thức liên quan đến nữ, bình đẳng giới, gia đình, trẻ em, sức khỏe sinh sản bằng nhiều hình thức, trong đó ưu tiên mạng xã hội và hình ảnh trực quan sinh động, dễ gần, dễ hiểu. Tích cực tham gia xây dựng chính sách có liên quan đến quyền, lợi ích của lao động nữ như góp ý bổ sung sửa đổi Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội... Ký kết Thỏa ước Lao động tập thể cấp ngành với nhiều nội dung có lợi cho lao động nữ như: Tặng quà các ngày của chị em; khuyến khích lắp đặt phòng vắt trữ sữa, hỗ trợ thêm cho lao động nữ ngoài các khoản theo quy định của Bộ luật Lao động...
Tại cấp cơ sở, Thỏa ước Lao động tập thể của nhiều đơn vị quy định các điều khoản cao hơn luật dành cho lao động nữ như: Tầm soát ung thư, khám sức khỏe sinh sản, tổ chức chuyền may riêng với ghế ngồi phù hợp và suất ăn dinh dưỡng cho lao động nữ mang thai, tặng quà cho lao động nữ sinh con trong kế hoạch, hỗ trợ chi phí gửi trẻ, hỗ trợ chi phí tránh thai cho lao động nữ khi đã sinh đủ 2 con... Thường xuyên nắm bắt hoàn cảnh, đồng hành, thăm hỏi, động viên, hỗ trợ kịp thời, giúp chị em giải quyết khó khăn trong cuộc sống. Nhiệm kỳ vừa qua, toàn hệ thống đã trích gần 67,5 tỉ đồng hỗ trợ cho trên 594 nghìn lượt lao động nữ.
Tạo môi trường học tập, thi đua gắn với bản sắc và tự hào nghề nghiệp
Nhiệm kỳ qua, có 232 nghìn lượt lao động nữ được học tập nâng cao trình độ, kỹ năng, tay nghề. Gần 1.500 nữ CNVCLĐ được đề bạt, thăng tiến trong công việc. Các phong trào thi đua trong lao động nữ, đặc biệt là phong trào “Giỏi việc nước, Đảm việc nhà” được đổi mới cả về nội dung và hình thức. 5 năm qua, có trên 41.700 lượt nữ CNVCLĐ đạt danh hiệu “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” các cấp.
Đặc biệt, CĐDMVN là đơn vị đầu tiên và duy nhất trong hệ thống công đoàn toàn quốc tính đến thời điểm này có giải thưởng riêng cho lao động nữ mang tên bà tổ nghề May Nguyễn Thị Sen, dành tặng những lao động nữ có nhiều đóng góp cho sự nghiệp phát triển ngành. Giải thưởng đã tạo hiệu ứng tích cực, sôi nổi trong thi đua đối với nữ. Qua 5 lần xét thưởng, đã có 50 lao động nữ tiêu biểu được tôn vinh...
Sáng tạo, đổi mới, đồng hành cùng lao động nữ xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc
Xét thưởng danh hiệu Gia đình Dệt May tiêu biểu cấp ngành dành cho gia đình NLĐ xuất sắc trong lao động sản xuất và xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Nhiệm kỳ qua đã có 144 gia đình được khen thưởng. Hằng năm, Công đoàn Dệt may tổ chức Chương trình “Bay cao ước mơ” cho con NLĐ có thành tích xuất sắc trong học tập với nhiều hoạt động ý nghĩa như Báo công dâng Bác, vui chơi tập thể, tìm hiểu về ngành nghề của bố mẹ, tìm kiếm tài năng... 5 năm qua, CĐDMVN đã trích 2,7 tỉ đồng khen thưởng cho trên 4.800 học sinh giỏi cấp ngành và trao học bổng “Đồng hành cùng em đến trường” động viên con NLĐ vượt khó...
Giải pháp chăm lo, bảo vệ quyền lợi lao động nữ, xây dựng gia đình đoàn viên, NLĐ ấm no hạnh phúc trong nhiệm kỳ mới
Tiếp tục nghiên cứu đặc thù, điều kiện làm việc của ngành để tham gia xây dựng chế độ chính sách nữ, đặc biệt là chế độ đối với lao động nữ mang thai, nuôi con nhỏ; tăng cường các chương trình đào tạo kiến thức, kỹ năng, tay nghề, năng lực thích ứng cho lao động nữ để có được việc làm bền vững. Nghiên cứu những hình thức mới lạ, nội dung hấp dẫn, thiết thực gắn với nhu cầu, sở thích, sự quan tâm của lao động nữ để triển khai các hoạt động tuyên truyền, vận động, văn hóa, thể thao, các cuộc thi, các chương trình... lôi cuốn sự vào cuộc của nam giới, nhằm thay đổi nhận thức, hành vi, thái độ ứng xử, sự đồng cảm và chia sẻ của các đồng nghiệp nam cũng như những người đàn ông trong mỗi gia đình...
Bà Phạm Thị Thanh Tâm đề xuất: Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành có liên quan kết nối các ngành nghề phù hợp với từng lứa tuổi, để khi NLĐ đã hết tuổi nghề ở những công việc nặng nhọc, các trung tâm dịch vụ việc làm có thể giới thiệu họ làm những công việc phù hợp để có thêm thu nhập và tham gia bảo hiểm xã hội, khi về hưu có mức lương đủ sống.
Các chính sách ưu đãi dành cho doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ cần được thúc đẩy thực thi trên thực tế để khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện tuyển dụng lao động nữ, chi các khoản chi tăng thêm cho lao động nữ, đầu tư xây dựng nhà ở, nhà trẻ, mẫu giáo, cơ sở y tế, công trình văn hóa, công trình phúc lợi khác, giúp NLĐ, đặc biệt là lao động nữ giảm thiểu khó khăn, yên tâm công tác.
Quan tâm các cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để NLĐ, đặc biệt là lao động nữ được tiếp cận các loại hình nhà ở xã hội, dịch vụ thiết yếu, vay vốn làm kinh tế; các nguồn kinh phí chuyển đổi nghề nghiệp, đào tạo nâng cao trình độ, kỹ năng tay nghề, giúp lao động nữ nâng cao năng lực thích ứng, có việc làm bền vững.
Đề nghị Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và các bộ ngành có liên quan: Nghiên cứu, rà soát đề xuất sửa đổi, bổ sung danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, làm cơ sở xét điều kiện về tuổi hưởng lương hưu của NLĐ trong đó có lao động nữ. Phân loại hợp lý nhóm lao động trực tiếp, lao động làm công việc nặng nhọc độc hại, để NLĐ, lao động nữ được nghỉ hưu sớm hơn so với lộ trình tuổi quy định nhằm đảm bảo sức khỏe và an toàn lao động. Đề nghị Tổng Liên đoàn: Nghiên cứu ban hành các đề án thúc đẩy hỗ trợ nữ CNVCLĐ xây dựng hạnh phúc gia đình; chăm sóc, nuôi dạy con. Tham gia xây dựng các chính sách, cơ chế hỗ trợ đời sống, việc làm của lao động nữ, đặc biệt là chính sách hỗ trợ lao động nữ di cư, lao động có hoàn cảnh đặc biệt trong các KCN, KCX.
Theo chương trình, trong phiên bế mạc, đại hội sẽ tiến hành các nội dung: Báo cáo tiếp thu, giải trình vào dự thảo Báo cáo của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa XII trình Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam; báo cáo tiếp thu, giải trình Điều lệ Công đoàn Việt Nam (sửa đổi, bổ sung); thảo luận, biểu quyết thông qua Điều lệ Công đoàn Việt Nam; báo cáo kết quả phiên họp thứ nhất Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa XIII.
Cũng trong sáng 3.12, dự kiến Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa XIII ra mắt Đại hội; đồng chí Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa XIII thay mặt Ban Chấp hành phát biểu nhận nhiệm vụ; chia tay các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa XII không tái cử khóa XIII.
Dự kiến sau khi bế mạc Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam, Thường trực Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa XIII sẽ tổ chức buổi họp báo về kết quả của đại hội.
Trước đó, trong ngày 2.12, đại hội đã bầu 168 ủy viên Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khoá XIII, nhiệm kỳ 2023-2028.