Sign In

Cơ hội, thách thực và định hướng giải pháp phát triển-hội nhập quốc tế của đất nước trong giai đoạn mới (phần 2)

15:18 04/10/2024


II. Đề xuất quan điểm, định hướng giải pháp phát triển đất nước gắn với hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới

1. Quan điểm phát triển gắn với hội nhập quốc tế

 

Trong phạm vi bài này, sẽ không đề cập đến quan điểm phát triển chung, toàn diện của Việt Nam, mà sẽ đề xuất các quan điểm phát triển của Việt Nam gắn với bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn, với những tác động và chi phối của bối cảnh quốc tế, nhất là của chủ nghĩa tư bản hiện đại, nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu “tận dụng tối đa các tác động tích cực, giảm thiểu các tác động tiêu cực từ sự phát triển của CNTB”. Do đó xin đề xuất các quan điểm sau:

 

Quan điểm 1. Cần phải nhìn nhận sự phát triển của CNTB là sự phát triển khách quan của hình thái kinh tế - xã hội TBCN: CNTB là một hình thái kinh tế - xã hội, một giai đoạn phát triển khách quan, tự nhiên của nhân loại (theo quan điểm của Mác - Engghen); sự phát triển của chủ nghĩa tư bản cũng là một giai đoạn phát triển tự nhiên của nhân loại; CNTB vẫn tiếp tục phát triển theo phương thức “phủ định biện chứng” lên những nấc thang cao hơn; CNTB vẫn chứa đựng bản chất “bóc lột giá trị thặng dư” với những “khuyết tật” và hạn chế của nó; nhưng do quy luật phát triển nội tại và do sự đấu tranh của các lực lượng tiến bộ, chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày càng hướng tới phát triển các giá trị nhân bản chung của nhân loại. Theo đó, không thể nhìn nhận sự phát triển và vai trò của chủ nghĩa tư bản một cách đơn giản chỉ theo quan điểm “đấu tranh giai cấp”, “ta và chúng nó”, đối lập siêu hình, máy móc giữa CNXH và CNTB như trước đây.

 

Quan điểm 2. Cần phải nhìn nhận vị trí, vai trò khách quan của CNTB đối với quá trình phát triển của nhân loại: Cần có cách nhìn khách quan, tổng thể, toàn diện về sự phát triển và vai trò lịch sử của cả hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa CNTB đối với tiến trình phát triển của thế giới, của nhân loại, cả về tác động tích cực và tiêu cực, qua các giai đoạn và trình độ phát triển; không đồng nhất với sự “thăng trầm” của từng nước tư bản chủ nghĩa, không nhìn nhận chủ nghĩa tư bản thông qua các “biến thể” dân tộc chủ nghĩa, các chính sách riêng biệt của từng nước TBCN; cũng không coi vai trò của CNTB là vai trò của riêng giai cấp tư sản.

 

Quan điểm 3. Nhìn nhận sự phát triển, vị trí, vai trò của CNTB phải quán triệt cách tiếp cận lịch sử - cụ thể: Nhìn nhận về sự phát triển và vai trò của CNTB đối với tiến trình phát triển của thế giới phải gắn với bối cảnh lịch sử của thế giới, trong sự đấu tranh, tương tác với các trào lưu, khuynh hướng phát triển khác trên thế giới, đặc biệt là xu hướng phát triển theo định hướng XHCN; tránh cách nhìn nhận định kiến về sự phát triển, vị trí, vai trò của CNTB đối với sự phát triển của thế giới chỉ theo cách tiếp cận “đấu tranh giai cấp”, “ý thức hệ”, thiên về những tiêu cực của CNTB và vai trò của nó trong lịch sử.

 

Quan điểm 4. Hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới về thực chất vẫn là hội nhập với thế giới mà trong đó chủ nghĩa tư bản hiện đại (thể hiện tập trung ở các nước tư bản phát triển) đang chiếm lĩnh hầu hết các “đỉnh cao” của sự phát triển của nhân loại:  Trong những thập kỷ tới, CNTB đang và sẽ còn đóng vai trò chủ đạo chi phối các xu hướng phát triển lớn của thế giới. Hội nhập quốc tế thực chất là hội nhập về các giá trị kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, con người, an ninh, môi trường sinh thái (giữa giá trị của từng quốc gia - dân tộc và giá trị chung của nhân loại); đây là cuộc hợp tác và đấu tranh trên toàn cầu, để một mặt phải tôn trọng và bảo vệ các giá trị và lợi ích chính đáng của từng nước, đồng thời cùng xây dựng, phát triển và bảo vệ các giá trị tốt đẹp chung của nhân loại.

 

Quan điểm 5. Sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam phải đặt trong (gắn với) dòng chảy phát triển của nhân loại thông qua hội nhập quốc tế: Hội nhập quốc tế phải trở thành một động lực quan trọng của sự phát triển đất nước, nhưng không phải là “thụ động” xuôi theo dòng chảy đó, mà phải chủ động kiến tạo và phát triển các giá trị đặc trưng của Việt Nam để hội nhập có hiệu quả cao trong dòng chảy đó, nhất là với các nước tư bản chủ nghĩa phát triển; thực hiện có hiệu quả phương châm “kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại”, “nội lực quyết định, ngoại lực quan trọng”. Quá trình hội nhập quốc tế thực tế là mở rộng quan hệ hợp tác, đối thoại, liên kết kinh tế và các lĩnh vực khác với rất nhiều nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau, trình độ phát triển khác nhau. Đó thực chất cũng là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, thỏa hiệp theo nguyên tắc “cùng có lợi”; đặt lợi ích quốc gia - dân tộc là tối thượng.

 

Quan điểm 6. Nhận thức về sự tác động của CNTB đến sự phát triển của Việt Nam phải thật sự khách quan, khoa học, thực tiễn, cả những tác động tích cực và tiêu cực, không “chính trị hóa, tư tưởng hóa” cực đoan: Nhận thức rõ các tác động tích cực và tiêu cực; phải lấy lợi ích quốc gia dân tộc là nền tảng, đồng thời phải tôn trọng các lợi ích chung của nhân loại, lợi ích chính đáng của các nước trong quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế. Sự tác động của chủ nghĩa tư bản hiện đại đến sự phát triển của Việt Nam là đa diện, đa chiều, đa cấp độ; do đó cần phải có cách tiếp cận hệ thống trong nhìn nhận, đánh giá; xác định rõ được những vấn đề mang tính bản chất, cơ bản, cốt lõi, lâu dài, những vấn đề mang tính giai đoạn, thứ yếu.

 

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, không thể (hay rất khó) tách biệt máy móc tác động này là “của chủ nghĩa tư bản”, tác động kia “không phải là của chủ nghĩa tư bản”; bởi vì tiến trình phát triển của thế giới (và cũng là sự tác động tới các nước) trên các lĩnh vực đều là sự tác động tổng hợp của các nước tư bản phát triển, của sự phát triển của các nước không liên kết (thường gọi là thế giới thứ ba), của các nước phát triển theo định hướng XHCN (với những quan niệm, mô hình khác nhau), và của các nước phát triển theo định hướng dân tộc chủ nghĩa. Vì vậy, trong cách tiếp cận xem xét sự tác của chủ nghĩa tư bản và những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển của Việt Nam, cần xem xét trong tổng thể những tác động tích cực, tiêu cực, những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển của Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế, nhất là trong quan hệ với các tổ chức, định chế quốc tế, khu vực, và quan hệ đa phương và song phương với các nước tư bản chủ nghĩa phát triển.

 

Quan điểm 7. Phải đẩy mạnh chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì hòa bình, hợp tác và phát triển, với chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế: Hội nhập quốc tế được quy tụ ở hội nhập về giá trị và lợi ích. Xác định hội nhập kinh tế là trung tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác là rất quan trọng, kết nối hữu cơ tạo thành hệ thống đồng bộ đóng góp tích cực vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tạo động lực phát triển nhanh - bền vững đất nước. Trong giai đoạn mới, phải đẩy mạnh hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, nâng cao tiềm lực và năng lực nội sinh của đất nước (phát triển sức mạnh tổng hợp của dân tộc - sức mạnh cứng và sức mạnh mền) để làm nền tảng cho hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và có hiệu quả hơn; nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế; cùng hợp tác xây dựng “lòng tin chiến lược” đối với các đối tác phát triển, nhất là các đối tác lớn, các nước bè bạn, láng giềng; trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thể chế phát triển chính trị - xã hội của nhau; tạo nên lợi ích và trách nhiệm tin cậy, tương hỗ trong quá trình hợp tác và phát triển.

 

Quan điểm 8. Phải xây dựng các giải pháp “ứng phó” (thích ứng) có hiệu quả của Việt Nam trong phát triển và hội nhập quốc tế: Các giải pháp phải được xem xét theo quan điểm lịch sử cụ thể; một mặt, nhằm tận dụng và phát huy có hiệu quả các cơ hội thuận lợi mở ra; mặt khác, phải hóa giải các thách thức, hạn chế tối đa các tác động tiêu cực, kể cả các chính sách áp đặt một chiều, không công bằng từ các nước lớn, các nước phát triển. Cả về nhận thức và các cơ chế, chính sách, giải pháp “ứng phó” cụ thể, đều phải thể hiện quá trình vừa hội nhập, hợp tác cùng có lợi, vừa đấu tranh để bảo vệ chủ quyền quốc gia, lợi ích quốc gia, vừa đấu tranh và tham gia vào xây dựng các thể chế, chế định quốc tế và khu vực ngày càng hiệu quả hơn. Đặc biệt, phải nâng cao năng lực phản ứng chính sách để thích ứng kịp thời, có hiệu quả với sự thay đổi nhanh, đột biến của tình hình thế giới.

 

2. Định hướng các giải pháp để nâng cao hiệu quả phát triển gắn với hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn mới

 

Mục tiêu cơ bản đặt ra đối với việc xây dựng các giải pháp, cơ chế, chính sách là nhằm tận dụng có hiệu quả cao các cơ hội, giảm thiểu các tác động tiêu cực trong quá trình hội nhập quốc tế. Để tranh thủ được cơ hội, hóa giải được thách thức từ sự phát triển của thế giới đối với quá trình phát triển của Việt Nam trong giai đoạn mới, cần phải tiến hành đồng bộ các biện pháp nhằm nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao sức cạnh tranh, khả năng chống chịu của nền kinh tế, sự ổn định về chính trị - xã hội. Liên quan mật thiết tới hiệu quả của hội nhập quốc tế với sự tác động từ sự phát triển của CNTB, cần triển khai các định hướng giải pháp, chính sách chủ yếu sau:

 

(1)- Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới tư duy phát triển và hội nhập quốc tế đáp ứng với yêu cầu phát triển mang tính đột phá của giai đoạn mới.

 

Hiện nay và giai đoạn sắp tới, sự phát triển của thế giới đang có những thay đổi mang tính đột phá, bứt phá trên hấu hết các lĩnh vực. Sự phát triển và hội nhập quốc tế của Việt Nam tất yếu phải gắn với những thay đổi đó. Đổi mới tư duy phát triển và hội nhập quốc tế để tạo nền tảng lý luận cho xây dựng đường lối, chủ trương, chiến lược và cơ chế, chính sách phát triển đáp ứng với yêu cẩu của giai đoạn mới, để đưa đất nước vượt lên “thành quốc gia hùng cường, phồn vinh, sánh vai với các cường quốc năm châu”, không bị tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình - Đó là một yêu cầu sống còn của đất nước. Trong giai đoạn mới, phát triển bền vững trở thành một yêu cầu - một giá trị quan trọng chung của nhân loại và của mỗi nước. Đồng thời phát triển theo chiều sâu dựa trên nền tảng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, thể hiện tập trung ở cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo nên lực lượng sản xuất hiện đại, quan hệ sản xuất mới với trình độ xã hội hóa cao hơn trên phạm vi toàn cầu, cũng như trong phạm vi mỗi nước. Phát triển nhanh - bền vững đồng bộ cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường sinh thái trong bối cảnh hội nhập quốc tế mới, đòi hỏi phải xây dựng một hệ sinh thái tư duy mới, mang tính đột phá, với những nội dung chủ yếu sau:

 

(i) - Thay đổi cách tiếp cận, xây dựng và hoàn thiện tiêu chí đánh giá thực trạng trình độ phát triển và mục tiêu phát triển của Việt Nam theo tinh thần khách quan, khoa học, “nhìn thẳng vào sự thật” trong tương quan so sánh với khu vực và thế giới (cả về những kết quả, thành tựu, những yếu kém bất cập, hiệu quả của sự tăng trưởng và phát triển trong tất cả các lĩnh vực, nguyên nhân, những vấn đề mới đặt ra), để từ đó nhận rõ hơn Việt Nam đang ở vị thế như thế nào trong tương quan phát triển với các nước khu vực và thế giới, thấy rõ tính cấp thiết phải đẩy mạnh đổi mới thể chế phát triển, chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu, dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.

 

(ii) - Nhận thức rõ yêu cầu xây dựng tư duy phát triển theo chiều sâu đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái… Tư duy này khác về bản chất so với tư duy phát triển theo chiều rộng (phát triển dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên, lao động trình độ thấp, trình độ công nghệ thấp). Tư duy phát triển theo chiều sâu đặt trên nền tảng cốt lõi là phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; phát huy cao vai trò chủ thể của nhấn tố con người, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao trong tất cả các lĩnh vực và cấp độ; tư duy về xây dựng các thể chế, thiết chế để hình thành và phát triển các giá trị con người, giá trị văn hóa, giá trị xã hội, giá trị quốc gia - dân tộc đáp ứng với yêu cầu của giai đoạn phát triển mới; xây dựng và hoàn thiện các thể chế và thiết chế phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội để phát triển và kết nối đồng bộ các giá trị dân chủ - kỷ cương - trách nhiệm xã hội của tất cả các chủ thể, phát huy được cao nhất sức sáng tạo và sức mạnh của cả dân tộc. Phát triền nhanh - bền vững phải đặt phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo vào động lực then chốt, nhất là quá trình chuyển đổi số trong phát triển nền kinh tế số, xã hội số và Nhà nước số; phát triển bền vững đồng bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường sinh thái phải trở thành một giá trị cốt lõi trong tư duy phát triển ở mọi cấp, mọi chủ thể. Đây là yêu cầu rất bức thiết đối với Việt Nam, nhất là trong bối cảnh phần lớn các nước tư bản phát triển đã đi đầu, phát triển theo chiều sâu từ nhiều thập kỷ trước.

 

(iii) - Đẩy mạnh đổi mới tư duy về hội nhập quốc tế: Trong giai đoạn mới, xu thế phát triển, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, sự đấu tranh và tùy thuộc lẫn nhau sẽ rất phức tạp và đa diện - đa tầng trong quan hệ quốc tế cả về kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự, văn hóa, khoa học - công nghệ… Đây là cuộc chạy đua - cạnh tranh nhằm chiếm lĩnh vai trò chủ đạo về công nghệ cao, về trí tuệ nhân tạo, chủ quyền về kinh tế số, đang tiềm tàng định hình cán cân quyền lực toàn cầu trong tương lai không xa. Việt Nam cần nhận thức sâu toàn bộ các quá trình phát triển của thế giới hiện đại, nhận thức rõ mối quan hệ giữa các tính phổ quát của nhân loại và các đặc trưng dân tộc Việt Nam trong quá trình phát triển, “định vị” Việt Nam trong các mối quan hệ quốc tế và khu vực, trên cơ sở của tư duy đổi mới đó để xây dựng Chiến lược phát triển đất nước và các đối sách quan hệ đối ngoại - hội nhập quốc tế phù hợp, không để rơi vào tình thế bị động chiến lược, lệ thuộc hay “đơn thương độc mã, một mình một chợ”, thiếu những đối tác chiến lược tin cậy cùng đồng hành phát triển trong điều kiện quốc tế mới…

 

Để thực hiện có hiệu quả nhất chủ trương “kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại”, phải có tư duy mới về xây dựng và hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách phát triển đối ngoại - hội nhập quốc tế để có thể “chuyển hóa” có hiệu quả thế (vị thế) của đất nước thành lực để phát triển nhanh - bền vững đất nước. Như vậy phải từ tư duy tầm toàn cầu, tầm nhân loại về sự phát triển để “định vị” Việt Nam trong các mối quan hệ quốc tế và khu vực, trên cơ sở đó mà xác định định hướng chiến lược và thể chế phát triển đất nước, chứ không phải là chỉ lấy những giá trị riêng biệt của Việt Nam làm cơ sở tư duy về định hướng chiến lược phát triển và hội nhập quốc tế. Cần nhận thức rõ rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không thể nằm ngoài “dòng chảy” của nhân loại, mà phải gắn với dòng chảy của nhân loại. Nhưng không phải là bị động xuôi theo dòng chảy đó, mà phải chủ động kiến tạo và phát triển những giá trị đặc trưng của Việt Nam để có thể kết nối với những giá trị tốt đẹp chung của nhân loại trong quá trình phát triển.

 

Cần nhận thức rõ Việt Nam đang tất yếu phải hội nhập với thể giới, trong đó các nước tư bản chủ nghĩa đã và đang phát triển cao hơn trình độ của Việt Nam về nhiều mặt. Sư phát triển đó chứa đựng những giá trị chung của nhân loại mà Việt Nam cần học hỏi. Mặt khác, cũng cần phải nhận rõ những hạn chế, bất cập (thậm chí tiêu cực, phản nhân văn) mang tính khách quan của chủ nghĩa tư bản trong quá trình phát triển với tính cách là một hình thái kinh tế - xã hội (và cả tính chủ quan của một mô hình cụ thể); để trên cơ sở đó có những cơ chế, chính sách “hóa giải”, hạn chế những tác động tiêu cực, không thuận.

 

Cần nhận thức sâu sắc vấn đề nổi lên hàng đầu trong hội nhập quốc tế là hội nhập về giá trị và lợi ích, gắn liền với chất lượng và hiệu quả của hội nhập, nhất là hội nhập kinh tế quốc tế; năng lực tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu ở các phân khúc giá trị gia tăng cao; xây dựng cơ cấu nền kinh tế dân tộc với lực lượng doanh nghiệp nội địa mạnh để nâng cao năng lực tự chủ và “khả năng chống chịu” trước những biến động lớn của thế giới. Đây đang là đỏi hỏi khách quan, đồng thời cũng là một thách thức không nhỏ đối với Việt Nam. Do đó, cần đẩy mạnh đổi mới tư duy để xây dựng định hướng chiến lược, cơ chế, chính sách mang tính vượt trội, nâng cao năng lực và trình độ hội nhập, để có thể đón nhận, tận dụng có hiệu quả cao các cơ hội phát triển, đồng thời có thể “hóa giải”, hạn chế các tác động tiêu cực trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn.

 

(2) - Đẩy mạnh xây dựng thể chế phát triển đất nước nhanh - bền vững

 

Hiện nay, trên thế giới, cả về lý luận và thực tiễn, đều có sự thống nhất cao là: Thể chế là một trong những nhân tố đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của một quốc gia, tạo nên sức mạnh tổng hợp (cả sức mạnh cứng và sức mạnh mềm) của một quốc gia trong phát triển và hội nhập quốc tế. Theo tổng kết của Ngân hàng thế giới, nguyên nhân quan trọng khiến các nền kinh tế Đông Bắc Á công nghiệp hóa thành công là do xây dựng được thể chế phát triển phù hợp và chất lượng cao. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chính thức xác định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”; “tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển, bảo đảm hài hoà giữa kiên định và đổi mới, kế thừa và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, văn hoá, xã hội… ; thực sự coi trọng, phát huy hiệu quả vai trò động lực của con người, văn hoá, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trong phát triển đất nước”.

 

Trong giai đoạn phát triển mới, để tranh thủ được cơ hội, giảm thiểu được thách thức từ sự phát triển của CNTB, đối với Việt Nam, cần phải xây dựng, cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả thể chế phát triển nhanh - bền vững đất nước theo tinh thần chỉ đạo của Đại hội XIII. Đó là thể chế phát triển tổng hợp, đồng bộ - phù hợp, hướng tới mối quan hệ biện chứng sau: Thể chế chính trị đóng vai trò định hướng “vượt trước”, “dẫn đường” - Thể chế kinh tế đóng vai trò trung tâm tạo động lực lợi ích cho sự phát triển - Thể chế xã hội đóng vai trò điều tiết hài hòa xã hội, gắn với thể chế bảo vệ có hiệu quả môi trường sinh thái. Đồng thời, phải xây dựng được thể chế hội nhập quốc tế phù hợp, năng động, để có thể thực hiện có hiệu quả cao phương châm “kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại”.

 

Thể chế phát triển nhanh - bền vững được xây dựng phù hợp, có chất lượng sẽ đảm bảo sự tăng trưởng - phát triển với tốc độ tương đối cao (cả về số lượng, quy mô, chất lượng, hiệu quả). Đảm bảo sự sự tăng trưởng - phát triển đồng bộ giữa các lĩnh vực, không ngừng làm tăng nội lực và tính độc lập - tự chủ của quốc gia. Đảm bảo tính bền vững trong quá trình phát triển cả về chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, với nhiều những biến động đột biến, khó lường. Đột phá về xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ theo chiều sâu có tầm quan trọng trực tiếp tạo nên động lực phát triển mạnh mẽ đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh - bền vững trong giai đoạn mới.

 

 

(3) - Hoàn thiện và thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế

 

Năng lực độc lập - tự chủ là yếu tố quyết định “thắng, thua” trong hợp tác, cạnh tranh với CNTB. Năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế phải được thể hiện ở tiềm lực - sức mạnh kinh tế tổng thể của Việt Nam, trong đó có sự đóng góp chung của các thành phần kinh tế, các chủ thể sản xuất kinh doanh phát huy cao nhất vai trò, vị trí khách quan của mình trong các điều kiện và trình độ cụ thể, hoạt động theo hiến pháp và pháp luật, có năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh cao (của nền kinh tế, của các doanh nghiệp, của các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ) được nâng lên ngang tầm thế giới và khu vực; tham gia ngày càng sâu rộng và hiệu quả vào các chuỗi giá trị toàn cầu.

 

Phải phát triển mạnh nội lực của nền kinh tế dân tộc trở thành nòng cốt của kinh tế Việt Nam (gồm cả kinh tế nhà nước và kinh tế ngoài nhà nước, cả trong quan hệ kinh tế quốc tế và quan hệ kinh tế trong nước). Do đó, phải đề cao, coi trọng và đẩy mạnh phát triển hơn nữa vai trò của kinh tế tư nhân. Hoàn thiện thể chế để đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân cả về quy mô và chất lượng, phát triển theo chiều sâu, trở thành một động lực trọng yếu phát triển nền kinh tế Việt Nam; hỗ trợ, thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp lớn đủ sức tham gia có hiệu quả vào các chuỗi giá trị toàn cầu.

 

Hoàn thiện cơ chế, chính sách để nâng cao chất lượng và hiệu quả của kinh tế nhà nước, đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý và sử dụng tài sản công, nguồn lực công, nhất là các tài sản có tính thương mại; kiên quyết chống thất thoát, tham nhũng, lãng phí. Hoàn thiện đồng bộ thể chế quản lý doanh nghiệp nhà nước theo hướng hiện đại; đẩy mạnh hoàn thiện cơ chế quản trị và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, để doanh nghiệp nhà nước thực hiện tốt vai trò nòng cốt, tiên phong trong những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, quan trọng về quốc phòng, an ninh, trong những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư, hoặc ít đầu tư.

 

Hoàn thiện thể chế để kết nối các khu vực kinh tế, các chủ thể kinh tế trở thành một thực thể hữu cơ, gắn kết với nhau, thúc đẩy phát triển mạnh nội lực nền kinh tế dân tộc, trong đó coi trọng phát triển hợp tác - đối tác công tư nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội vào phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao tính độc lập - tự chủ của nền kinh tế, giảm sự phụ thuộc quá lớn vào đầu tư FDI và thị trường nước ngoài. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để thúc đẩy xây dựng nền kinh tế dân tộc mạnh trên cơ sở phát huy có hiệu quả cao vai trò khách quan, ưu thế, sức mạnh và hiệu quả của tất cả các khu vực, chủ thể và lực lượng kinh tế.

 

Đồng thời, phải hoàn thiện đồng bộ thể chế tận dụng có hiệu quả cơ hội do cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra, để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá theo hướng hiện đại. Tập trung nguồn lực và cơ chế, chính sách để xây dựng nền công nghiệp quốc gia hiện đại, vững mạnh, tạo sự bứt phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế... Doanh nghiệp trong nước (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân) phải vươn lên trở thành động lực chính, chủ đạo; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phải coi công nghiệp hóa theo hướng hiện đại là động lực cốt lõi, chủ yếu để phát triển nhanh - bền vững, nâng cao năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế nước ta trong hội nhập quốc tế.

 

Xây dựng và thực thi có hiệu quả thể chế mang tính vượt trội - hội nhập quốc tế để kịp thời đón nhận và phát triển các phương thức, mô hình, hình thức kinh tế, sản xuất kinh doanh mới (đang hình thành và phát triển rất nhanh như nền kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, ứng dụng Blockchain...), sự chuyển dịch các chuỗi cung ứng; thúc đẩy đổi mới - sáng tạo, phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vào trong sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong các ngành, lĩnh vực nền tảng, chủ lực, mũi nhọn, và vào các lĩnh vực của đời sống xã hội. Kết hợp chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả giữa phát triển tuần tự với đi tắt đón đầu, thúc đẩy chuyển dịch nhanh từ gia công, lắp ráp sang sáng tạo, thiết kế và sản xuất tại Việt Nam; coi chuyển đổi số là phương thức mới có tính đột phá để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách để thúc đẩy nâng cao năng xuất, chất lượng sản xuất kinh doanh của tất cả các chủ thể kinh tế; nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế (cạnh tranh sản phẩm, cạnh tranh doanh nghiệp, cạnh tranh quốc gia).

 

Hoàn thiện thể chế để khuyến khích, hỗ trợ, thúc đẩy phát triển mạnh đội ngũ doanh nhân dân tộc “có tâm và tài” (trong đó có thế hệ khởi nghiệp sáng tạo) biết gắn sự phát triển và lợi ích của mình với sự phát triển và lợi ích của dân tộc, là lực lượng chủ lực góp phần quan trọng vào hội nhập và “định vị” nền kinh tế Việt Nam trên thế giới.

 

(4) - Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của Việt Nam, theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế hiệu quả

 

Trong quá trình hội nhập quốc tế, điều quan trọng hàng đầu là phải tiếp tục đổi mới, xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế (hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách…) đáp ứng ba yêu cầu sau: i) - Đáp ứng với yêu cầu cao về thể chế, quy định, quy tắc của các nước và các tổ chức quốc tế ở trình độ cao (so với nước ta); ii) - Đàm phán để có các quy định pháp lý thỏa thuận bảo vệ được các lợi ích cốt lõi, cơ bản của nước ta; giành được các ưu đãi, ưu tiên nhất định về lộ trình thực hiện các cam kết (ví dụ lộ trình về mức cắt giảm thuế…) đối với một nước còn ở trình độ phát triển thấp hơn; iii) - Đổi mới, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đề thúc đẩy mạnh phát triển nội lực, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, vươn lên đáp ứng hiệu quả với yêu cẩu cao của hội nhập quốc tế.

 

Cần đẩy mạnh hoàn thiện thể chế về mối quan hệ giữa nhà nhà nước, thị trường và xã hội theo nguyên tắc “nhà nước mạnh - thị trường hiệu quả - xã hội (doanh nghiệp và người dân) năng động, sáng tạo”; nhằm tạo sự cộng hưởng phát huy những mặt mạnh của Nhà nước, thị trường và xã hội; đồng thời hạn chế, khắc phục những bất cập, “thất bại” của cả Nhà nước, thị trường và xã hội, trong điều kiện cụ thể của Việt Nam và hội nhập quốc tế. Nhà nước mạnh là một Nhà nước pháp quyền kiến tạo - quản trị phát triển, mạnh về định hướng chiến lược phát triển, mạnh về quản lý vĩ mô, mạnh về xây dựng pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển, mạnh về phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ công chức; mạnh về năng lực quản lý - quản trị phát triển, mạnh về năng lực phản ứng chính sách trước những biến đổi của môi trường phát triển… 

 

Tập trung hoàn thiện thể chế để nâng cao chất lượng kinh tế vĩ mô, đây là yêu cầu rất quan trọng đi liền với giữ vững ồn định kinh tế vĩ mô. Xây dựng và thực thi có hiệu quả mô hình và cơ chế, chính sách chuyển đổi sang phát triển theo chiều sâu (chung của cả nền kinh tế và riêng từng ngành, lĩnh vực). Hoàn thiện thể chế để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả tái cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tái cơ cấu đầu tư (nhất là thể chế đầu tư công), theo hướng công khai, minh bạch, nâng cao tính cạnh tranh, nâng cao chế độ trách nhiệm, giảm tối đa các thủ tục hành chính. Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ chính sách đầu tư, chính sách tài chính và tiền tệ, thuế, phí…công khai minh bạch, theo hướng tiếp cận với quy định và thông lệ quốc tế, thúc đẩy phát triển và hội nhập quốc tế hiệu quả.

 

Hoàn thiện thể chế để thúc đẩy phát triển đồng bộ, hiệu quả các khu vực, thành phần kinh tế (nhà nước, tư nhân, tập thể, FDI…), nhằm phát huy cao vai trò khách quan của từng khu vực, chủ thể. Xây dựng thể chế kết nối các thành phần kinh tế (vốn đang có rất ít kết nối với nhau), trở thành một thực thể hữu cơ, gắn kết với nhau, thúc đẩy phát triển mạnh nội lực nền kinh tế dân tộc.

 

Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế sở hữu, trong đó có thể chế đất đai. Tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh theo hướng công khai, minh bạch; đẩy mạnh việc cắt giảm điều kiện và thủ tục sản xuất kinh doanh. Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách để thúc đẩy quá trình hợp tác, liên kết sản xuất kinh doanh giữa các chủ thể, theo hướng có sự chia sẻ về trách nhiệm, quyền lợi, rủi ro…để tạo lập các chuỗi sản xuất kinh doanh, chuỗi giá trị bền vững; tham gia vào các chuỗi cung ứng toàn cầu.

 

 

(5) - Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển xã hội - quản lý phát triển xã hội trong quá trình hội nhập quốc tế

 

Hoàn thiện thể chế và thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội, nhằm phát triển, phát huy các giá trị tốt đẹp của dân tộc; đồng thời tiếp thu và phát triển có hiệu quả các giá trị tốt đẹp chung của nhân loại; khắc phục các tác động tiêu cực trong quá trình hội nhập quốc tế. Tập trung vào những nội dung sau:

 

Hoàn thiện cơ chế, chính sách đảm bảo sự phân phối, điều tiết tương đối hài hòa cơ hội phát triển, thành quả, lợi ích phát triển giữa các tầng lớp xã hội, giữa các khu vực; hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách giàm nghèo bền vững (theo cách tiếp cận đa chiều); hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội theo hướng hội nhập quốc tế; chú trọng tới các đối tượng yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng khó khăn, để “không để ai tụt lại phía sau”.

 

Hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách để phát huy cao vai trò của Mặt trận tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư, gia đình và cá nhân trong hoạt động “tư chủ - tự quản” theo pháp luật, vì lợi ích của các thành viên và của xã hội. Thực hiện có hiệu quả dân chủ xã hội, nhất là dân chủ ở cơ sở; xây dựng và thực thi có hiệu quả cơ chế giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động của các tổ chức Đảng và Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến quốc kế dân sinh, đến quyền và lợi ích của người dân.

 

Thực hiện có hiệu quả quyền tiếp cận thông tin của nhân dân; các tổ chức đảng và các cơ quan nhà nước, các càn bộ và đảng viên phải thực thi nghiêm túc trách nhiệm giải trình trước nhân dân; xử lý nghiêm, công khai, minh bạch các vi phạm pháp luật (không có vùng cấm), để nâng cao lòng tin của nhân dân, sự đồng thuận xã hội đối với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.

 

Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách hợp tác - hội nhập quốc tế về các lĩnh vực xã hội (văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ, thông tin, truyền thông…), để một mặt phát triển và đưa các giá trị văn hóa - xã hội của Việt Nam ra hội nhập quốc tế; tiếp thu có chọn lọc, hiệu quả, phù hợp các giá trị văn hóa - xã hội tốt đẹp, kinh nghiệm quản lý phát triển xã hội của các nước; mặt khác, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách để phòng và chống có hiệu quả các tác động tiêu cực về văn hóa - xã hội trong quá trình hội nhập quốc tế. 

 

(6) - Tiếp tục hoàn thiện thể chế để nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới

 

Tiếp tục nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xây dựng chiến lược hợp tác và hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới (chung và cụ thể cho từng lĩnh vực). Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có những bước phát triển mới, diễn biến rất phức tạp, biến động khó lường, đòi hỏi phải chủ động điều chỉnh kịp thời chiến lược hợp tác và hội nhập quốc tế, vừa có tầm nhìn dài hạn, vừa ứng phó có hiệu quả, giảm tác động tiêu cực đối với sự phát triển của đất nước; có những đối sách để bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, không để bị lợi dụng, bị áp đặt. Chủ động đẩy mạnh tham gia vào xây dựng khung khổ pháp lý và hoạt động của các quan hệ đa phương và song phương; tham gia vào các chuỗi sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác có tầm quan trọng chiến lược đối với sự phát triển và an ninh của đất nước; đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập đi vào thực chất, tạo sự đan xen gắn kết lợi ích giữa nước ta với các đối tác.

 

Hoàn thiện cơ chế, chính sách và các giải pháp để thực hiện có hiệu quả các hiệp định và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, nhất là các FTA thế hệ mới. Cần phải nghiên cứu kỹ, hiểu đầy đủ, sâu sắc các đối tác, các yêu cầu và quy định của họ; đồng thời phải hoàn thiện cơ chế, chính sách để nâng cao chất lượng hàng hóa dịch vụ, minh bạch xuất xứ, tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường, giảm giá thành, tăng khả năng cạnh tranh; tham gia ngày càng nhiều hơn vào các chuỗi giá trị gia tăng cao.

 

Nâng cao năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế, từng bước giảm sự phụ thuộc quá lớn vào đầu tư FDI và thị trường nước ngoài. Cần đổi mới mục tiêu, tiêu chí và cơ chế chính sách thu hút FDI để nâng cao chất lượng và hiệu quả tổng hợp đóng góp vào sự phát triển chung của cả nước, vào xây dựng nền kinh tế hiện đại, độc lập - tự chủ của Việt Nam; đón nhận quá trình chuyển dịch các chuỗi cung ứng trong giai đoạn mới phù hợp và hiệu quả trong từng lĩnh vực, theo hướng ứng dụng công nghệ cao; liên kết có hiệu quả với các doanh nghiệp trong nước, đa dạng hóa nguồn cung, cầu; giảm dần tỷ trọng gia công lắp ráp với trình độ công nghệ thấp và trung bình. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để thúc đẩy kết nối có hiệu quả các doanh nghiệp Việt với các doanh nghiệp FDI trong việc phát triển công nghiệp phụ trợ, cung ứng đầu vào, tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao.

 

Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế gắn với bảo vệ nền kinh tế dân tộc theo những quy tắc và chuẩn mực cao, nhằm thúc đẩy phát triển và phát huy tối đa nội lực, tận dụng các cơ hội và kết hợp có hiệu quả với các xu thế phát triển của thế giới, tham gia ngày càng sâu rộng và hiệu quả hơn vào các chuỗi giá trị, chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng toàn cầu; thích ứng có hiệu quả cao với hàng rào kỹ thuật cao mà các nước đặt ra; bảo vệ sở hữu trí tuệ, thương hiệu sản phẩm hàng hóa của đất nước; phòng chống có hiệu quả gian lận thương mại, xử lý tranh chấp thương mại quốc tế.

 

Điều cốt lõi vẫn là phải nâng cao chất lượng, sức canh tranh của hàng hóa, dịch vụ, của doanh nghiệp Việt, của cả nền kinh tế, trên thị trường thế giới và trong nước. Đồng thời xây dựng và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách phù hợp với thông lệ quốc tế để bảo vệ nền kinh tế dân tộc trong quá trình hội nhập. Nâng cao năng lực dự báo và năng lực phản ứng chính sách trước những tác động của biến đổi thế giới và khu vực, nhất là tác động của các cuộc chiến tranh “nóng”, chiến tranh - cạnh tranh thương mại giữa các nước lớn đối với sự phát triển của Việt Nam trong những năm tới, trên cơ sở đó có những kịch bản chủ động hội nhập và ứng phó hiệu quả.

 

Đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng và an ninh theo phương châm: kiến tạo và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh - bền vững; “tích cực, chủ động, linh hoạt”, thực hiện “trong ấm, ngoài êm”; “kiên quyết, kiên trì” thực hiện các giải pháp bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”; mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh, chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh phù hợp với tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc; “xây dựng lòng tin chiến lược”, tạo lập các quan hệ đối tác tin cậy, bền vững, cùng có lợi; tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

 

Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hoà bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Tham gia có trách nhiệm vào lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc trên cơ sở đề nghị của Liên hợp quốc, phù hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc, điều kiện và khả năng của Việt Nam; tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia.

 

Các biện pháp này cần được kết hợp chặt chẽ với tổng thể các biện pháp nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế đất nước, để không chỉ hóa giải thành công các tác động tiêu cực, nhanh chóng phục hồi, mà còn tận dụng được các cơ hội có thể có trước các tác động từ bên ngoài, trong đó có các thay đổi nhanh, đột biến, các cuộc cạnh tranh chiến lược, các cuộc khủng hoảng bắt đầu từ các nước tư bản. Cả về nhận thức và các cơ chế, chính sách, giải pháp “ứng phó” cụ thể, đều phải thể hiện quá trình vừa hội nhập, hợp tác cùng có lợi, vừa đấu tranh để bảo vệ chủ quyền quốc gia, lợi ích quốc gia, vừa đấu tranh và tham gia vào xây dựng các thể chế, chế định quốc tế và khu vực ngày càng hiệu quả hơn.

 

Trong bối cảnh CNTB hiện đại sẽ tiếp tục chi phối thế giới trên cả hai phương diện “sân chơi” và “luật chơi”, vấn đề đặt ra cho Việt Nam là vừa hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới, vừa phải chủ động, tích cực tham gia đóng góp vào việc đấu tranh để tạo ra một sân chơi rộng mở và bình đẳng hơn cho mọi “người chơi”. Cần chú trọng tận dụng tối đa lợi thế của nền kinh tế mở, vừa mở rộng và làm sâu sắc thêm hợp tác với các đối tác bên ngoài, đặc biệt là các nước thành viên Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế (OECD), tạo nên cơ chế “tương hỗ” về cả lợi ích và trách nhiệm. Tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác phát triển với các nước tư bản phát triển cũng là một biện pháp quan trọng để “thích ứng” có hiệu quả trong hợp tác và hội nhập với các đối tác có trình độ phát triển cao.

 

(7) - Nâng cao năng lực và trách nhiệm của tất cả các chủ thể.

 

Trước hết, phải tiếp tục đẩy mạnh đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo - cầm quyền tiền phong của Đảng, năng lực quản lý - quản trị kiến tạo phát triển của Nhà nước pháp quyền, đáp ứng với yêu cầu của giai đoạn mới. Xây dựng thể chế phát triển tổng hợp nhanh - bền vững, có chất lượng và thực thi hiệu quả thể chế đó đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các giải pháp và cơ chế, chính sách đề nâng cao năng lực của tất cả các chủ thể ở các cấp, các lĩnh vực, gắn với phát triển theo chiều sâu (như năng lực nghiên cứu ban hành thể chế, cơ chính sách, năng lực lãnh đạo triển khai tổ chức thực hiện thể chế, năng lực thực thi thể chế…). Phải chế định rõ các cơ chế và thiết chế thực thi thể chế nghiêm túc, “nói đi đôi với làm”, “thượng tôn pháp luật”. Sự đồng bộ giữa ban hành và thực thi thể chế đòi hỏi phải nâng cao năng lực, trình độ và ý thức trách nhiệm của tất các chủ thể, từ người lao động đến tầng lớp lãnh đạo - quản lý các cấp. Đặc biệt là phải có cơ chế, chính sách đào tạo, sử dụng có hiệu quả đội ngũ nhân lực trình độ cao, chất lượng cao trong tất cả các lĩnh vực, trong đó có đội ngũ làm công tác liên quan đến hội nhập và hợp tác quốc tế. Chất lượng của thể chế và hiệu lực, hiệu quả thực thi thể chế của tất cả các chủ thể là nhân tố quyết định đảm bảo cho sự phát triển nhanh - bền vững Việt Nam trong giai đoạn mới./.

(Hết)

                                                                PGS.TS Trần Quốc Toản 

                                                                                   Chuyên gia cao cấp

 

 

(Ghi chú: Sản phẩm của Đề tài cấp nhà nước: Chủ nghĩa tư bản hiện đại - vai trò, tác động đến tiến trình phát triển của thế giới và định hướng chình sách của Việt Nam; mã số KX.04.08/21-25).


 

Tag:

File đính kèm