Hiện nay, với sự phát triển của khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo nhân loại đang đứng trước sự phát triển mang tính chất đột phá trên tất cả các phương diện. Điều đó cho thấy sức mạnh của con người trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Sự thành bại của các quốc gia phụ thuộc ngày càng lớn vào chất lượng nguồn nhân lực. Bởi vậy, chúng ta cần phải có chiến lược đúng đắn về phát triển nguồn nhân lực nhằm phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh của con người Việt Nam, đồng thời, tranh thủ tốt nhất những thời cơ thuận lợi mà những xu hướng toàn cầu đang tạo ra, để phát triển nhanh và bền vững, thực hiện thắng lợi những mục tiêu xây dựng đất nước mà Đảng ta đã đề ra từ nay đến giữa thế kỷ XXI. Tuy nhiên, điều đó chỉ thực sự có hiệu quả khi chúng ta nhận thức sâu sắc về bối cảnh, nắm bắt những yêu cầu đang và sẽ đặt ra đối với nguồn nhân lực của nước nhà ở hiện tại cũng như tương lai.
1. Bối cảnh mới tác động đến nguồn nhân lực phục vụ xây dựng, phát triển đất nước
Về bối cảnh thế giới và khu vực:
Một là, xu thế phát triển của thế giới.
Nắm bắt xu thế của thế giới có ý nghĩa quan trọng trong định hướng phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Chỉ khi nắm được xu thế chung, chúng ta mới có cơ sở để đưa ra các giải pháp riêng phù hợp. Hiện nay và trong thời gian tới, tình hình thế giới tiếp tục có những diễn biến phức tạp, nhanh chóng và khó dự báo. Mặc dù hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức. Sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, diễn ra ngày càng gay gắt, xung đột cục bộ sẽ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức và có xu hướng quyết liệt, phức tạp hơn. Toàn cầu hóa tiếp tục phát triển, mặc dù đứng trước nhiều thách thức của sự cạnh tranh nước lớn và chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi và hình thành một thế giới đa cực, đa trung tâm và sự cạnh tranh, kiềm chế lẫn nhau giữa các cực, các trung tâm ngày càng gay gắt hơn... Điều đó vừa tạo điều kiện thuận lợi, vừa tạo khó khăn cho chúng ta trong việc phát triển nguồn nhân lực. Thuận lợi là ta có thể tranh thủ được xu thế phát triển của nhân loại để tăng cường hợp tác, giáo lưu, trao đổi trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Khó khăn là xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt, trong đó có cạnh tranh về nguồn nhân lực chất lượng cao, gây khó khăn cho chúng ta trong việc giữ chân nhân tài, tránh tình trạng “chảy máu chất xám”. Trước bối cảnh đó, chúng ta cần phải có một chiến lược phát triển nguồn nhân lực tổng thể cả về chủ trương, đường lối, chương trình kế hoạch, chính sách đúng đắn và quyết tâm chính trị cao độ.
Hai là, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ và tác động ngày càng sâu sắc đến tất cả các quốc gia.
Nhân loại trong những thập niên gần đây đang chứng kiến sự thay đổi rất nhanh chóng trên mọi phương diện, trong đó khoa học và công nghệ có sự phát triển mạnh mẽ nhất. Sự phát triển của nó đã làm cho chuyển đổi trong đời sống kinh tế - xã hội diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh hơn. Đặc biệt, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã làm thay đổi “đột biến”, đáng “kinh ngạc” về tốc độ tăng trưởng, chiều hướng phát triển kinh tế; làm cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra nhanh, tối ưu hơn và đưa loài người bước từ nền văn minh công nghiệp sang “văn minh trí tuệ”. Do đó, có thể khẳng định rằng: “giống như các cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba, thứ hai và thứ nhất, Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ thay đổi hoàn toàn cấu trúc và chức năng của hệ thống kinh tế - xã hội, cũng như cách sống và kinh doanh thành công, hay thậm chí chỉ là vừa đủ trong quá khứ sẽ không hề nhất thiết còn đúng trong tương lai. Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ mang đến những cơ hội to lớn cho việc khai thác công nghệ để mở rộng năng lực của con người trong sản xuất và phân phối tài nguyên”[2].
Sự phát triển của khoa học và công nghệ đã đem đến cho con người sự phồn vinh về vật chất chưa từng thấy trong lịch sử với mức độ ngày càng tăng, đồng thời cũng làm thay đổi của phương thức sản xuất, quản lý xã hội, từ đó đem đến những thay đổi to lớn về kinh tế - xã hội, văn hóa so với thời gian trước đây. Những thành tựu mà nó đem lại đã tác động mạnh mẽ tới sự phát triển kinh tế, làm cho kinh tế tri thức trở thành tất yếu, chi phối xu hướng phát triển của nhiều quốc gia. Nó vừa là sản phẩm, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, làm cho phân công lao động xã hội đạt đến một tầm mới cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Đặc biệt cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã, đang và sẽ ảnh hưởng ngày càng sâu rộng, làm biến đổi nhiều mô hình, hệ thống sản xuất kinh doanh. Điều đó cũng có nghĩa nguồn lao động giá rẻ sẽ mất dần lợi thế, các ngành nghề phổ thông sẽ dần dần bị thu hẹp, thậm chí biến mất, thay vào đó là những ngành nghề đòi hỏi hàm lượng chất xám cao. Cuộc cách mạng công nghiệp này tạo ra bước chuyển căn bản, thúc đẩy kinh tế thế giới chuyển mạnh sang kinh tế tri thức - “thông minh”, dần dần xóa nhòa ranh giới giữa công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, đồng thời bước vào giai đoạn tăng trưởng chủ yếu dựa vào động lực khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo. Nó cũng làm cho người dân ở các quốc gia được hưởng nhiều lợi ích, được tiếp cận nhiều sản phẩm và dịch vụ mới với chất lượng cao cùng chi phí thấp hơn.
Ba là, nền kinh tế thế giới tiếp tục có nhiều biến đổi mạnh mẽ.
Sau Đại dịch Covid-19, nền kinh tế thế giới từng bước hồi phục, tuy nhiên, tốc độ phục hồi còn chậm và tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, khó khăn, thách thức do tác động phức tạp của tình hình thế giới. Toàn cầu hóa ngày càng phát triển tạo điều kiện cho các quốc gia tham gia ngày càng sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, làm gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhu giữa các nền kinh tế. Sự bất ổn về giá cả, tài chính tiền tệ, nợ công cùng với đó là xung đột địa chính trị ở nhiều nơi đang gây ra nhiều rủi ro cho nền kinh tế thế giới. Trong khi đó, tương quan sức mạnh kinh tế giữa các trung tâm, các quốc gia vẫn tiếp tục có nhiều thay đổi. Nhìn chung, các nước trên thế giới đang tiến hành điều chỉnh chiến lược, tái cơ cấu, đổi mới thể chế nền kinh tế, tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ, khuyến khích đổi mới sáng tạo. Cạnh tranh kinh tế, thương mại, tranh giành thị trường, tài nguyên, công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ ngày càng gay gắt hơn. Nhiều mô hình phát triển kinh tế mới, các định chế tài chính ở nhiều cấp độ cũng như các hiệp định kinh tế, thương mại thế hệ mới... đã, đang và sẽ tiếp tục xuất hiện.
Nhìn chung, nền kinh tế thế giới đang chuyển đổi dựa trên cơ sở tận dụng tối đa những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ để chuyển đổi mô hình phát triển. Mỗi nước đều có thể tùy điều kiện cụ thể để lựa chọn cho phù hợp, để có thể tận dụng cơ hội khác nhau. Các xu hướng đó bao gồm: Kinh tế exabyte, Kinh tế an sinh, Kinh tế Net zero, Kinh tế tuần hoàn, Kinh tế tăng trưởng sinh học, Kinh tế trải nghiệm... Nhưng để thực hiện được điều đó, đòi hỏi nguồn nhân lực phải có chất lượng tương ứng. Bởi vậy, chăm lo xây dựng, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao đang là yếu tố có ý nghĩa quyết định tới việc thành bại của các nền kinh tế. Nước nào có nguồn nhân lực tốt hơn, thu hút và giữ chân được nhân tài nhiều hơn thì nước đó sẽ phát triển và giành được ưu thế trong cuộc cạnh tranh toàn cầu, trong cuộc chạy đua tới tương lai. Chính những biến đổi trong nền kinh tế thế giới, đặt ra những yêu cầu mới đối với nguồn nhân lực. Người lao động không chỉ phải giỏi về chuyên môn mà còn cần có rất nhiều các kỹ năng khác, đó là kỹ năng giao tiếp, sử dụng vi tính, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng báo cáo, kỹ năng tìm hiểu và xử lý thông tin... Cùng với đó, người lao động phải có duy khoa học, độc lập, tự chủ, sáng tạo, có năng lực tự học, phát triển kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng hội nhập và làm việc trong môi trường quốc tế...
Bốn là, khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động trong trạng thái cạnh tranh gay gắt về mọi mặt.
Trong thời gian tới, vị thế và vai trò của khu vực châu Á - Thái Bình Dương trên trường quốc tế ngày càng gia tăng. Đây cũng là nơi có sự phát triển năng động hàng đầu thế giới và trở thành đầu tàu dẫn dắt, động lực thúc đẩy kinh tế thế giới. Khu vực này đứng đầu thế giới về quy mô, nguồn lực phát triển (trong đó có nguồn nhân lực), tốc độ tăng trưởng, tiềm năng phát triển kinh tế; là nơi tập trung nhiều cường quốc nhất, có nhiều quốc gia ảnh hưởng đến sự phát triển toàn cầu nhất; đồng thời, cũng là nơi tập trung nhiều cường quốc quân sự hàng đầu thế giới. Giữ vị trí chiến lược về địa lý, đứng đầu về quy mô kinh tế, tầm ảnh hưởng về chính trị và sức mạnh quân sự, cùng với đó triển vọng phát triển rất lớn khiến cho khu vực châu Á - Thái Bình Dương trở thành trung tâm địa - chính trị, địa kinh tế, địa - quân sự toàn cầu. Không chỉ có vậy, đây cũng là khu vực có sự cạnh tranh chiến lược vô cùng gay gắt, là khu vực hội tụ của tất cả các mâu thuẫn thời đại, là nơi ảnh hưởng có tính chất quyết định đến sự định hình cục diện thế giới trong tương lai. Việt Nam là một nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, một phần của khu vực châu Á - Thái Bình Dương, có điều kiện rất thuận lợi để tranh thủ thời cơ phát triển, có điều kiện hợp tác, trao đổi để từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thu hút nhân tài cho phát triển đất nước. Ở khía cạnh khác, sự cạnh tranh gay gắt cũng đặt ra cho chúng ta rất nhiều khó khăn để thu hút, giữ chân lực lượng lao động có trình độ cao, trong khi khả năng của nền kinh tế nước ta còn có hạn so với nhiều nước trong khu vực. Bối cảnh khu vực sẽ còn tiếp tục tác động mạnh mẽ tới nước ta trên tất cả các mặt, trong đó có phát triển nguồn nhân lực
Về bối cảnh trong nước:
Thứ nhất, khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, phồn vinh.
Trải qua gần 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín như ngày nay. Tuy nhiên, đất nước vẫn đứng trước nhiều khó khăn, nguy cơ, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn tồn tại và có mặt còn gay gắt hơn. Nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình vẫn còn lớn. Việc hoàn thiện thể chế; đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm, chưa tạo được chuyển biến căn bản về mô hình tăng trưởng; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Tỉ trọng lực lượng lao động đã qua đào tạo ở nước ta đã được cải thiện nhưng vẫn còn thấp; trình độ chuyên môn của lực lượng lao động đã có bước phát triển nhất định, nhưng xét về tổng thể chất lượng vẫn chưa cao. Tác phong công nghiệp, kỹ năng làm việc nhóm, tính chuyên nghiệp còn yếu, khuynh hướng nắm vững về lý nhưng lại yếu về thực hành còn khá phổ biến...
Trong khi đó, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đa không ngừng ra sức thi đua phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, tạo điều kiện, tiền đề tiếp tục tiến lên trong giai đoạn tiếp theo để đạt được các mục tiêu phát triển gắn với các mốc thời gian đến năm 2025, 2030 và 2045. Tuy nhiên, mục tiêu trên có thực hiện được hay không thì lại phụ thuộc vào nhân tố có ý nghĩa quyết định nhất là nguồn nhân lực để xây dựng và phát triển đất nước. Và ngược lại, sự phát triển nguồn nhân lực trong thời gian tới sẽ chịu sự chi phối theo tinh thần và định hướng phát triển đất nước.
Thứ hai, sự chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế.
Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự thay đổi khuôn khổ chung đang vận hành nhằm xác lập một khuôn khổ hay mô thức chung mới để định hướng vẫn hành nền kinh tế dựa trên cơ sở tối ưu hóa các nguồn lực phát triển, với một cơ cấu kinh tế hiện đại, hợp lý để đạt được tốc độ phát triển kinh tế cao, bền vững phù hợp với xu thế của thời đại, trong từng giai đoạn nhất định. Sau một thời gian duy trì mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng về kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trong điều kiện mới, mô hình đó đã tới hạn, ảnh hưởng lớn đến năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế và không còn phù hợp với mục tiêu phát triển quốc gia. Bởi vậy, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế là tất yếu, cấp thiết và cấp bách đối với Việt Nam. Điều này đã được chúng ta thực hiện hàng thập kỷ nay và sẽ vẫn tiếp tục được đẩy mạnh hơn trong thời gian sắp tới, để đạt được các mục tiêu phát triển tổng quát của đất nước mà Đảng ta đã xác định. Hội nghị Trung ương 4, Khóa XII của Đảng đã khẳng định: “Đổi mới mô hình tăng trưởng là để nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế, phát triển nhanh và bền vững toàn diện về cả kinh tế, xã hội và môi trường. Không thúc đẩy tăng trưởng bằng mọi giá, gây tác động xấu đến ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm quốc phòng, an ninh, tiến bộ, công bằng xã hội, giữ gìn môi trường sinh thái”.
Việc đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế sẽ tác động tích cực đến toàn bộ nền kinh tế, buộc toàn bộ nền kinh tế phải được vận hành theo một mô thức mới. Các nguồn lực theo đó cũng sẽ được sử dụng phù hợp, hiệu quả hơn, trong đó có nguồn nhân lực. Tiếp tục quan điểm trên, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực để nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, phát triển các ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp trên nền tảng ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu của khoa học và công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu”[3].
Như vậy, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế hiện nay là chú trọng vào phát triển theo chiều sâu. Theo đó, trong thời gian tới sẽ đẩy nhanh hơn tốc độ chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa trên tăng khối lượng đầu tư, sử dụng nhiều lao động giản đơn, giá trị gia tăng thấp, khai thác tài nguyên xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, để chuyển mạnh sang mô hình tăng trưởng hiệu quả, bền vững dựa trên năng suất lao động, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao... Mô hình mới sẽ hướng tới nâng cao chất lượng, năng suất, hiệu quả tăng trưởng, tham gia ngày càng nhiều hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Nguồn lực tăng trưởng sẽ không chỉ dựa vào xuất khẩu, vốn đầu tư mà còn đồng thời dựa vào thị trường trong nước, nội sinh hóa nguồn lực tăng trưởng kết hợp với thu hút có hiệu quả nguồn lực bên ngoài, phát huy vai trò quyết định của nguồn lực bên trong. Gắn việc đổi mới mô hình tăng trưởng, việc tái cơ cấu nền kinh tế sẽ tiếp tục được đẩy mạnh. Các động lực của tăng trưởng và đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế sẽ là: tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo để nâng cao năng suất lao động; phát huy hiệu quả các nguồn lực, nhất là nguồn lực con người, phát huy lợi thế cạnh tranh và tham gia sâu hơn và chuỗi giá trị toàn cầu; cùng với đó là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thị trường và nhà nước trong từng thời điểm và toàn bộ quá trình phát triển kinh tế.
Thứ ba, Việt Nam chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nước ta ngày càng hội nhập toàn diện và sâu rộng với thế giới. Việt nam đã phát triển quan hệ kinh tế với các tổ chức quốc tế, các công ty đa quốc gia. Nhiều hiệp định thương mại song phương của Việt Nam và tổ chức mà Việt Nam là thành viên với các quốc gia, nhóm quốc gia trên thế giới được ký kết, như: Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA, năm 2009), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Chile (VCFTA, năm 2011), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Hàn Quốc (VKFTA, năm 2015), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á - Âu (EAEU, năm 2016). Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta tiếp tục được thúc đẩy thông qua việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào cuối năm 2015, CPTPP (năm 2016), EVFTA (năm 2020), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP, năm 2020), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam, Anh và Bắc Ireland (UKVFTA, năm 2020), VIFTA giữa Việt Nam, Israel (7/2023). Đến tháng 8/2023, Việt Nam đã tham gia và đang đàm phán 19 FTA, trong đó, có 16 FTA có hiệu lực và đang thực thi cam kết, 3 FTA đang đàm phán (FTA giữa Việt Nam và Khối thương mại tự do châu Âu (EFTA FTA), ASEAN - Canada, Việt Nam – UAE FTA[4]. Việc ký kết các FTA đã cho thấy vai trò của Việt Nam, quyết tâm chính phủ của Đảng, Nhà nước trong việc thúc đẩy thương mại tự do và hội nhập kinh tế, thương mại trên toàn cầu.
Trong khi đó, Cộng đồng ASEAN được thành lập, tạo ra thị trường chung duy nhất và cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó có sự lưu chuyển tự do hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề. Sự hội nhập sâu rộng, toàn diện của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới sẽ tạo cơ hội cho người lao động có trình độ cao được phép di chuyển tự do trong, cũng như ngoài khu vực ASEAN, qua đó giúp người lao động tăng thu nhập, nâng cao trình độ tay nghề, tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm, được học hỏi để không ngừng trưởng thành, nhờ đó chất lượng nguồn lao động sẽ không ngừng được gia tăng. Tuy nhiên, sự hội nhập không chỉ có một chiều thuận lợi mà nó cũng sẽ gây ra rất nhiều khó khăn, thách thức đến sinh kế, việc làm, thu nhập... của người lao động Việt Nam. Bởi vì, xét về tổng thể, chất lượng nguồn lao động của nước ta vẫn còn thấp, do đó dẫn đến nguy cơ người lao động Việt Nam bị thua ngay trên sân nhà, làm gia tăng thất nghiệp và kéo theo đó là hàng loạt vấn đề xã hội khác cần phải giải quyết.
Thứ tư, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không ngừng được hoàn thiện.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời gian qua, mô hình trên đã được định hình rõ nét về lý luận và khẳng định tính ưu việt trong thực tiễn. Đó là nền kinh tế thị trường “hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyên khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”[5].
Trong thời gian tới, cùng với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và hội nhập quốc tế, các đặc trưng của nền kinh tế thị trường mà chúng ta xây dựng sẽ ngày càng được hoàn thiện. Điều đó sẽ thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh chóng, khi vừa khai thác được các thế mạnh kinh tế thị trường, vừa hạn chế được các khuyết tật của nó và giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này tạo điều kiện thuận lợi, nhưng cũng đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với việc phát triển nguồn nhân lực nói chung và cho nền kinh tế nói riêng.
2. Yêu cầu về nguồn nhân lực phục vụ xây dựng, phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
Một là, “phát huy tối đa nhân tố con người; con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển”.
Nói đến nguồn nhân lực là nói đến con người, xây dựng, phát triển nguồn nhân lực cũng chính là xây dựng và phát triển con người. Chính con người là nguồn lực vô tận cho sự phát triển quốc gia. Sự thịnh, suy của một đất nước, của một chế độ phụ thuộc vào mức độ xây dựng và phát triển được nhân tố con người. Do đó, phải thực sự đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, vừa là chủ thể, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó, phải quan tâm đến các lĩnh vực có liên quan mật thiết đến nguồn nhân lực như: xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại; thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; thực hiện tốt các giải pháp xóa nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân. Bảo đảm cung cấp và nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho toàn dân, nhất là người nghèo, các lực lượng yếu thế trong xã hội, nâng cao chất lượng dân số, quan tâm chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của nhân dân. Tiếp tục phát triển thị trường lao động đồng bộ, hiện đại, linh hoạt, thông nhất, hội nhập và hiệu quả.
Hai là, nguồn nhân lực phải đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với xu thế thời đại.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 đã xác định: khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh thời đại, huy động mọi nguồn lực, phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, phấn đấu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Việc phát triển nguồn nhân lực ở nước ta trong thời gian tới phải đảm bảo thực hiện thắng lợi những mục tiêu đó. Trình độ kiến thức, kỹ năng làm việc, sự linh hoạt, sáng tạo của nhân lực Việt Nam phải tiếp cận và ngang bằng với trình độ các nước tiên tiến trong khu vực, một số mặt phải tiếp cận và đạt trình độ ngang bằng các nước tiên tiến trên thế giới.
Ba là, chú trọng phát triển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm nguồn nhân lực, đặc biệt coi trọng nguồn nhân lực chất lượng cao và đội ngũ chuyên gia đầu ngành.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước đang đặt ra, nguồn nhân lực cần phải được xây dựng toàn diện. Toàn diện được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, các ngành nghề: nhân lực khoa học và công nghệ; nhân lực lãnh đạo, quản lý; nhân lực quản trị doanh nghiệp, quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người; đội ngũ chuyển gia, nhà khoa học, nhà công nghệ...; đội ngũ công nhân lành nghề. Toàn diện còn được thể hiện ở các phương diện tạo nên chất lượng nguồn nhân lực như tâm lực, trí lực, thể lực. Phát triển nguồn nhân lực phải chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật, nghề nghiệp cho lực lượng lao động; đồng thời là giáo dục, bồi dưỡng thái độ làm việc chuyên nghiệp, trách nhiệm cao với bản thân, gia đình, Tổ quốc; cùng với đó, là tăng cường thể lực, cải thiện môi trường sống, chế độ dinh dưỡng để nâng cao tầm vóc, thể chất người lao động và năng lực hội nhập, làm việc trong môi trường quốc tế. Trong đó, cần chú trọng phát triển được nguồn nhân lực chất lượng cao và đội ngũ chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực. Đây chính là lực lượng nòng cốt để tiếp cận, tiếp nhận, làm chủ các thành tựu khoa học và công nghệ, là hạt nhân thực hiện nghiên cứu, phát triển cho quốc gia cũng như các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp.
Bốn là, phải kết hợp hài hòa lợi ích quốc gia với sử dụng cơ chế thị trường trong phát triển và sử dụng nguồn nhân lực.
Phát triển nguồn nhân lực là vấn đề có ý nghĩa trọng đại của quốc gia. Do đó, trước hết phải bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc, sự phát triển của đời sống nhân dân khi hoạch định các chiến lược, chính sách liên quan đến nguồn nhân lực. Tuy nhiên, chúng ta đang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên việc phát triển nguồn nhân lực cũng phải tuân theo cơ chế thị trường, trong sự vận động, biến đổi của nó theo các quy luật của thị trường. Dùng thị trường, kết hợp với cơ chế, chính sách của Nhà nước để phân bổ, điều chuyển nguồn nhân lực cho hợp lý, bảo đảm cho sự phát triển cân đối giữa các ngành, vùng, miền. Chuyển đổi nhanh chóng hệ thống đào tạo nguồn nhân lực theo hướng đáp ứng nhu cầu của xã hội và thị trường.
Năm là, phát huy vai trò của toàn xã hội trong tham gia phát triển nguồn nhân lực.
Phát triển nguồn nhân lực là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và của cả hệ thống chính trị. Do đó, cần phải huy động cao nhất sức mạnh của toàn xã hội, trách nhiệm của mỗi tổ chức, cá nhân trong việc chăm lo đến nguồn nhân lực đất nước. Đó vừa là vì lợi ích chung, vừa là vì lợi ích của mỗi người, mỗi nhà, mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị. Chỉ khi kết hợp chặt chẽ giữa Nhà nước với doanh nghiệp và người dân một cách hiệu quả bằng những cơ chế phù hợp, linh hoạt, chúng ta mới có thể nâng cao được chất lượng nguồn nhân lực theo yêu cầu. Tránh tình trạng xem việc phát triển nguồn nhân lực chỉ đơn thuần là của một chủ thể nào đó mà xem nhẹ vai trò của các chủ thể khác. Trong đó, vai trò của Nhà nước là quan trọng nhất vì đây là chủ thể dẫn dắt, định hướng, tạo môi trường; hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; xây dựng và thực thi các chính sách cũng như thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong phát triển nguồn nhân lực.
Sáu là, có chiến lược chiêu mộ, trọng dụng, phát triển nhân tài
Xuyên suốt lịch sử, các quốc gia đều mong muốn có nhiều nhân tài để thúc đẩy đất nước phát triển, tuy nhiên, có lẽ chưa có giai đoạn nào mà nhân loại nói chung, đất nước ta nói riêng lại khao khát nhân tài như hiện nay. Việt Nam hiện nay đang đứng trước những biến động mạnh mẽ của thời cuộc với nhiều vận hội và thách thức, cùng với quyết tâm mãnh liệt để để xây dựng đất nước hùng cường. Do đó, dân tộc ta đang mong mỏi, khát khao có nhiều nhân tài đề có thể mau chóng giúp nước nhà đạt được mục tiêu phát triển, sánh vai với các cường quốc năm châu.
Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp, có nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nhân tài của chúng ta tuy có nhưng chưa nhiều, chưa phong phú và chưa đáp ứng được khát vọng phát triển. Thời cuộc đang tạo ra cho chúng ta cơ hội để bắt kịp các nước phát triển, cơ hội phát triển rút ngắn, đi tắt đón đầu, nhưng cũng đòi hỏi chúng ta phải có cách tiếp cận mới mẻ, với những bước đi, cách làm sáng tạo, tạo được đột phá và sự bứt tốc thoát khỏi đường mòn, lối cũ. Trong cuộc cạnh tranh toàn cầu, trước sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, nếu không có sự đột phá trong cách nghĩ, cách làm, trong thể chế, nhất là trong chiêu mộ và phát triển nhân tài để nghiên cứu và phát triển các công nghệ tiên tiến (với tư cách là chìa khóa để phát triển, tạo nên sự bứt phá để bắt kịp) thì chắc chắn không thể thành công.
Chúng ta rất thuận lợi khi có một thể chế chính trị cho phép tập trung tối đa được nguồn lực để thực hiện một mục tiêu hay chương trình nào đó. Bởi vậy, đây là một thế mạnh không phải nước nào cũng có được, nếu chúng ta biết phát huy, thực sự cầu thị chắc chắn sẽ thành công trong việc quy tụ nhân tài. Nhưng việc đó phải tuân thủ quy luật của thị trường, quy luật phát triển xã hội và quy luật phát triển tự thân của con người. Đảng, Nhà nước phải luôn có tầm nhìn xa, trông rộng, tiên phong sáng tạo, mạnh dạn đột phá, nhất là về thể chế, cơ chế, chính sách để chiêu mộ nhân tài Việt Nam ở nước ngoài và nhân tài của các nơi khác để nghiên cứu, phát triển các công nghệ tiên tiến để bắt kịp các nước phát triển, hiện thực hóa giấc mơ hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc.
Như vậy, trong thời gian tới tình hình thế giới và trong nước tiếp tục biến đổi mạnh mẽ. Dù còn không ít yếu tố bất trắc, khó lường, khó dự báo, nhưng xét về tổng thể, thế giới trong tương lai vẫn chứng kiến sự phát triển của toàn cầu hóa và hội nhập; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục tạo ra những bước đột phá, tạo ra sự thay đổi căn bản trong nền sản xuất xã hội cũng như nền kinh tế thế giới; một trật tự thế giới đa cực, đa trung tâm sẽ hình thành, nhưng đi liền với đó là sự cạnh tranh gay gắt về chiến lược để giành và giữ ưu thế cho từng bên. Trong bối cảnh đó, nhân tố có ý nghĩa quyết định nhất đến sự thành công của các nước vẫn là chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Bởi vậy, bối cảnh tình hình và khát vọng phát triển đất nước đang đòi hỏi Việt Nam cần phải hành động mạnh mẽ hơn, với quyết tâm cao hơn nữa trong việc phát triển nguồn nhân lực để đạt được các mục tiêu đã đề ra.
[1] Thư ký khoa học Hội đồng Lý luận Trung ương
[2] Nicholas Johnson, Brendan Markey - Towler (2021), Cách mạng công nghiệp 4.0 dưới góc độ kinh tế học Internet, AI, Blockchain, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.19.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.120-121.
[4] Tổng hợp các FTA của Việt Nam tính đến tháng 08/2023, Cổng thông tin cơ sở dữ liệu thương mại Việt Nam, ngày 12-7-2024, Trung tâm WTO và hội nhập Liên đoàn Thương mại và công nghiệp Việt Nam, https://trungtamwto.vn/thong-ke/12065-tong-hop-cac-fta-cua-viet-nam-tinh-den-thang-112018
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, hà Nội, tr.128-129.