1. Cở sở chính trị và pháp lý về giáo dục bắt buộc
Trên thế giới, giáo dục bắt buộc đã được thực hiện trong nhiều thập kỷ qua với những quy định cụ thể khác nhau về độ tuổi bắt đầu đi học, thời gian học, chương trình, trách nhiệm của các bên liên quan… Ở các nước phát triển, có nền giáo dục phát triển như Cộng hòa liên bang Đức, Phần Lan, Hà Lan, Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Trung Quốc, giáo dục bắt buộc được “luật hóa” trong các văn bản như Hiến pháp, Luật Giáo dục, trong đó giáo dục bắt buộc không chỉ là trách nhiệm của học sinh “phải học” hay trách nhiệm của nhà trường “phải tổ chức các hoạt động học tập, giáo dục” mà còn là trách nhiệm của gia đình trong việc tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho việc học tập của trẻ em; trách nhiệm của cộng đồng xã hội và của chính quyền các cấp trong việc tạo môi trường học tập phù hợp, an toàn cho trẻ em. Hiện nay, giáo dục bắt buộc là xu hướng chung của thế giới, phổ biến ở nhiều nước, giáo dục bắt buộc được thực hiện trước hết ở cấp học tiểu học, cũng có một số nước thực hiện giáo dục bắt buộc ở trung học cơ sở và trung học phổ thông. Nghiên cứu từ các tư liệu cho thấy, giáo dục bắt buộc đối với giáo dục tiểu học ở một số quốc gia trên thế giới được tập trung vào những vấn đề sau[1]: (i). Độ tuổi tham gia giáo dục bắt buộc; (ii). Cấp học, hay số lớp đi học; (iii). Chương trình giáo dục; (iv) Điều kiện đảm bảo chất lượng, kiểm tra - đánh giá; (v). Các chính sách có liên quan như học phí, trách nhiệm của các bên tham gia (nhà trường, giáo viên, gia đình, phụ huynh và các lực lượng xã hội…).
Ở Việt Nam, Điều 15, Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946, quy định “Nền sơ học cưỡng bách và không học phí ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình. Học trò nghèo được Chính phủ giúp. Trường tư được mở tự do và phải dạy theo chương trình Nhà nước”. Điều 33, Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1959 quy định “Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có quyền học tập. Nhà nước thực hiện từng bước chế độ giáo dục cưỡng bách...”. Điều 60, Hiến pháp Việt Nam năm 1980, quy định “Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước thực hiện từng bước chế độ giáo dục phổ thông bắt buộc, thực hiện chế độ học không phải trả tiền và chính sách cấp học bổng, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân học tập”.
Ngày 12/8/1991, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Luật Phổ cập giáo dục tiểu học. Đây là bộ luật đầu tiên trong lĩnh vực giáo dục của nước ta, khẳng định cam kết của Chính phủ về một nền giáo dục tiểu học cưỡng bách và miễn phí cho tất cả trẻ em Việt Nam. Luật Phổ cập giáo dục tiểu học cũng xác định rõ phổ cập giáo dục tiểu học là mục tiêu xuyên suốt của cấp tiểu học. Tiếp đến ngày 02/12/1998, Quốc hội thông qua Luật Giáo dục số 11/1998/QH10, trong đó quy định “Giáo dục tiểu học là bậc học bắt buộc đối với mọi trẻ em từ 6 đến 14 tuổi; được thực hiện trong năm năm học, từ lớp một đến lớp năm. Tuổi của học sinh vào học lớp một là 6 tuổi”
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, tại Điều 61 quy định “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý…”.
Luật Giáo dục năm 2019[2], quy định:
- Tại khoản 8, Điều 5 quy định: Phổ cập giáo dục là quá trình tổ chức hoạt động giáo dục để mọi công dân trong độ tuổi đều được học tập và đạt đến trình độ học vấn nhất định theo quy định của pháp luật.
- Tại khoản 9, Điều 5 quy định: Giáo dục bắt buộc là giáo dục mà mọi công dân trong độ tuổi quy định bắt buộc phải học tập để đạt được trình độ học vấn tối thiểu theo quy định của pháp luật và được Nhà nước bảo đảm điều kiện để thực hiện.
- Tại khoản 2 Điều 6 quy định: Giáo dục phổ thông là một cấp học của hệ thống giáo dục quốc dân, bao gồm giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở và giáo dục trung học phổ thông. Trong đó, giáo dục tiểu học (Primary education), được hiểu là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và thể chất của trẻ em, nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn diện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Giáo dục tiểu học là giai đoạn thứ nhất của giáo dục bắt buộc, kế sau cấp học giáo dục mầm non (gồm nhà trẻ và mẫu giáo) và trước cấp học giáo dục trung học (gồm trung học cơ sở và trung học phổ thông). Đây là cấp học giáo dục cho trẻ em từ lớp một tới hết lớp năm, được xác định là cấp học quan trọng, đặc biệt có tác động sâu sắc đối với sự phát triển phẩm chất và năng lực nền tảng của trẻ em và của mỗi con người.
- Tại Điều 14 quy định về Phổ cập giáo dục và giáo dục bắt buộc: (1). Giáo dục tiểu học là giáo dục bắt buộc. Nhà nước thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 05 tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở; (2). Nhà nước chịu trách nhiệm thực hiện giáo dục bắt buộc trong cả nước; quyết định kế hoạch, bảo đảm các điều kiện để thực hiện phổ cập giáo dục; (3). Mọi công dân trong độ tuổi quy định có nghĩa vụ học tập để thực hiện phổ cập giáo dục và hoàn thành giáo dục bắt buộc; (4). Gia đình, người giám hộ có trách nhiệm tạo điều kiện cho các thành viên của gia đình trong độ tuổi quy định được học tập để thực hiện phổ cập giáo dục và hoàn thành giáo dục bắt buộc. Điều 99, quy định “Học sinh tiểu học trong cơ sở giáo dục công lập không phải đóng học phí; ở địa bàn không đủ trường công lập, học sinh tiểu học trong cơ sở giáo dục tư thục được Nhà nước hỗ trợ tiền đóng học phí, mức hỗ trợ do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định”.
2. Khái niềm về giáo dục bắt buộc
Giáo dục phổ cập (Universal Education) được hiểu là quá trình thực hiện giáo dục tại các cấp học để mọi công dân trong độ tuổi đều được học tập và đạt đến trình độ học vấn nhất định theo quy định của pháp luật. Phổ cập giáo dục[3], là việc tổ chức dạy học nhằm nâng cao toàn thể hay một tỷ lệ cao thành viên trong xã hội ở một độ tuổi nhất định, theo đó, mọi công dân trong độ tuổi quy định có nghĩa vụ học tập để thực hiện phổ cập giáo dục và hoàn thành giáo dục giáo dục bắt buộc. Như vậy, phổ cập giáo dục có sự khác biệt với giáo dục bắt buộc chính là ở tính chất giáo dục, phổ cập giáo dục được thực hiện tại các cơ sở giáo dục và có tính khuyến khích, chưa có chế tài.
Giáo dục bắt buộc (Compulsory education) được hiểu là giáo dục có tính chất bắt buộc đối với tất cả cá nhân trong tuổi đi học theo quy định của pháp luật. Tùy từng giai đoạn cụ thể Nhà nước quy định cho mọi cá nhân ở một độ tuổi nào đó, hoặc một độ tuổi cụ thể buộc phải học tập để đạt được trình độ giáo dục. Nhà nước có trách nhiệm cung cấp các điều kiện học tập và miễn học phí cho người học. Việc hoàn thành giáo dục bắt buộc không chỉ căn cứ vào kết quả huy động trẻ em đến tuổi đi học hằng năm mà còn phải căn cứ vào số học sinh tốt nghiệp sau khi học xong chương trình quy định. Giáo dục bắt buộc khác với việc đi học bắt buộc, trong đó nhấn mạnh cha mẹ có nghĩa vụ phải gửi con đến một trường nào đó để đảm bảo rằng con cái họ được dạy dỗ và đặc quyền của mọi trẻ em phải là có học vấn. Ngắn gọn hơn, giáo dục bắt buộc là việc quy định học tập bắt buộc cho các cá nhân ở một độ tuổi nhất định với sự cam kết trách nhiệm, nghĩa vụ của các bên có liên quan (nhà nước, nhà trường, giáo viên, cha mẹ và cộng đồng xã hội đối với việc học tập của con em) có thể diễn ra ở các nhà trường công lập, hoặc ở nhà.
Như vậy, với sự phân tích về giáo dục bắt buộc được quy định trong Hiến pháp, Luật Giáo dục, cho thấy giáo dục bắt buộc, nhất là giáo dục tiểu học là giáo dục bắt buộc là một trong những phương thức giúp cho trẻ em được học tập để phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng của bản thân. Việc thực hiện tốt giáo dục bắt buộc trước hết ở cấp tiểu học sẽ là tiền đề vững chắc cho việc đạt được các mục tiêu giáo dục quốc gia nói chung và định hình nhân cách, cung cấp kiến thức, kỹ năng cơ bản của mỗi trẻ em nói riêng.
3. Một số kết quả thực hiện giáo dục bắt buộc thời gian qua
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám khóa XI[4] “về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” xác định mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Hoàn thành việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm 2015. Bảo đảm cho học sinh có trình độ trung học cơ sở (hết lớp 9) có tri thức phổ thông nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ sở; trung học phổ thông phải tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng. Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm từ sau năm 2020.
Chỉ thị số 10-CT/TW, ngày 05/12/2011 của Bộ Chính trị khóa XI “về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, củng cố kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, tăng cường phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và xóa mù chữ cho người lớn”, xác định mục tiêu “Nâng cao trình độ dân trí một cách toàn diện,…Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và trung học cơ sở với chất lượng và hiệu quả ngày càng cao,…nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của đất nước. Huy động được 99,7% trẻ 6 tuổi vào học lớp 1, tỷ lệ lưu ban và bỏ học ở tiểu học dưới 0,5%. 100% đơn vị cấp tỉnh, 100% đơn vị cấp huyện và 99,5% đơn vị cấp xã phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi theo quy định của Chính phủ. Tỷ lệ trẻ hoàn thành chương trình tiểu học vào lớp 6 đạt 99,8%...”.
Đến nay, sau hơn 10 năm thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, với sự quan tâm cấp ủy đảng, chính quyền các cấp công tác phổ cập giáo dục ở Việt Nam đã đạt những kết quả quan trọng. Hầu hết trẻ em ở độ tuổi học tập đã được đưa vào hệ thống giáo dục quốc dân. Phổ cập giáo dục tiểu học tiếp tục được củng cố, duy trì vững chắc. Tính đến tháng 6/2024 cả nước có 63/63 tỉnh, thành phố duy trì và đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học, đạt tỷ lệ 100%, trong đó có 34 tỉnh/thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3[5]. Các địa phương đã làm tốt công tác huy động học sinh nhập học đúng độ tuổi, tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi đi học lớp 1 của cả nước tăng dần (năm 2011 là 98,7%; năm 2016: 99,3%; năm 2020: 99,67%; năm 2021: 99,7%; năm 2022: 99,7%, năm 2023: 99,7%), tạo tiền đề cho việc triển khai chương trình giáo dục phổ thông 2018, và nâng cao chất lượng giáo dục. Số học sinh chưa hoàn thành chương trình lớp học chiếm tỷ lệ thấp (1,19%) đã phản ánh thực chất chất lượng giáo dục tiểu học nói chung trên bình diện toàn quốc. Nhiều địa phương đã có các biện pháp, tạo điều kiện thuận lợi để huy động tối đa trẻ em trong độ tuổi được đi học và hoàn thành chương trình giáo dục tiểu học, ưu tiên trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em khuyết tật sinh sống, học tập trên địa bàn; chỉ đạo từng cơ sở giáo dục, cán bộ, giáo viên bám sát địa bàn, nắm chắc tình hình, hoàn cảnh mỗi gia đình, tâm sinh lý mỗi học sinh để đưa các em ngoài nhà trường quay trở lại lớp và giảm thiểu tình trạng học sinh bỏ học (tỷ lệ học sinh bỏ học dưới 0,05%). Đặc biệt, trẻ em ở các vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số và miền núi, các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển, hải đảo, trẻ không có nguồn nuôi dưỡng, trẻ thuộc hộ nghèo, cận nghèo đã được nhà nước hỗ trợ tiền ăn trưa; trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ khuyết tật được quan tâm phát hiện sớm, can thiệp sớm, học hòa nhập góp phần nâng cao tỷ lệ huy động trẻ em đến trường. Chương trình giáo dục cấp tiểu học được cập nhật, nội dung học tập được đa dạng hóa và phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước và xu thế phát triển giáo dục thế giới. Tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình giáo dục ở tiểu học đạt 92,08% (đứng ở tốp đầu khối ASEAN)[6].
Chất lượng đội ngũ từng bước được nâng cao, đáp ứng yêu cầu của một hệ thống giáo dục chất lượng cao. Đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục tiểu học hằng năm được tăng cường tập huấn nâng cao năng lực quản lý và tổ chức dạy học để triển khai thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Năm học 2022-2023, toàn quốc có 404.799 giáo viên tiểu học tăng so với năm học trước là 3.753 giáo viên, tỷ lệ trung bình giáo viên/lớp ở cấp tiểu học là 1,41, cơ bản đủ để thực hiện dạy học 2 buổi/ngày. Nhiều địa phương tăng cường thực hiện tuyển mới giáo viên trong đó chú trọng đến giáo viên các môn học mới ở cấp tiểu học khi thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018 ở cấp tiểu học, như môn Tiếng Anh, Tin học, Âm nhạc.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện chủ trương giáo dục giáo dục bắt buộc 9 năm từ sau năm 2020 ở Việt Nam chưa đạt mục tiêu đề ra. Tỷ lệ trẻ em được tiếp cận giáo dục còn chưa cao. Việc duy trì, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học chưa đồng đều giữa các tỉnh, thành phố, còn khác nhau giữa các khu vực, vùng miền, chất lượng phổ cập còn thấp và chưa vững chắc[7]. Một số địa phương nhận thức chưa thật đầy đủ về tầm quan trọng và vai trò của công tác phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi đối với nâng cao dân trí, tạo cơ sở vững chắc nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học tiến tới thực hiện giáo dục bắt buộc, phát triển nguồn nhân lực. Do sức ép về tiến độ và số lượng, một số địa phương cố thực hiện kế hoạch trong khi điều kiện chưa thật đầy đủ, mới chỉ quan tâm đến mục tiêu trước mắt phấn đấu đạt chuẩn, chưa thường xuyên xây dựng kế hoạch củng cố, duy trì nâng cao chất lượng phổ cập, có thể dẫn tới mất chuẩn, dẫn đến chất lượng phổ cập thiếu bền vững.
Ở một số tỉnh khó khăn, số học sinh lưu ban và bỏ học vẫn còn. Các giải pháp nâng cao tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số hiệu quả còn hạn chế. Một số địa phương chưa quan tâm phát triển trường, mạng lưới trường, lớp chưa đáp ứng được nhu cầu học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập, ảnh hưởng đến việc đi học của học sinh. Tại các địa bàn dân cư phân tán sau khi sắp xếp, sáp nhập, quy hoạch lại các trường, điểm trường thiếu các điều kiện bảo đảm thực hiện phổ cập và tổ chức dạy học 2 buổi/ngày. Nhiều trường tiểu học còn thiếu các phòng chức năng tối thiểu; thiếu sân chơi, bãi tập; thiếu khu vệ sinh, nếu có thì chưa đảm bảo theo tiêu chuẩn quy định, nhất là ở các tỉnh Tây Bắc, Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên còn tồn tại nhiều điểm trường, vẫn còn tình trạng lớp ghép…
Việc thực hiện giáo dục tiểu học là giáo dục bắt buộc còn những hạn chế nhất định, cụ thể:
- Đối tượng huy động thực hiện giáo dục bắt buộc còn khó khăn ở một số khu vực miền núi, hải đảo, kênh rạch, sông nước. Trẻ em, học sinh thuộc các nhóm dân cư có điều kiện khó khăn khác nhau về kinh tế, xã hội vẫn còn khó khăn trong việc tiếp cận giáo dục, đặc biệt là giáo dục tiểu học. Một số nơi có tình trạng di cư tự nhiên, đổi chỗ cư trú, khai sinh chậm, không đầy đủ thông tin, tục lệ xây dựng gia đình sớm đã ảnh hưởng đến việc cập nhật số liệu đối tượng phổ cập, huy động ra lớp và duy trì sĩ số học sinh, cũng như quản lý số trẻ được sinh ra hàng năm tại địa phương. Một số học sinh người đồng bào dân tộc ít người, dân trí thấp, thiếu các điều kiện tiếp cận giáo dục hiện đại nên gặp khó khăn trong việc tiếp cận và sử dụng sách giáo khoa, tài liệu học tập.
- Đội ngũ giáo viên nhiều nơi còn thừa thiếu cục bộ, chưa đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt ở các vùng khó khăn. Đời sống tinh thần, vật chất, đi lại gặp nhiều trở ngại, khí hậu khắc nghiệt ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe của thầy giáo, cô giáo. Tình trạng thiếu giáo viên dạy các môn học mới theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018 chưa được giải quyết. Giáo viên người địa phương ở các vùng khó khăn còn chiếm tỷ lệ thấp, tính ổn định không cao. Giáo viên dạy vùng dân tộc, ít biết tiếng dân tộc, nên khó khăn trong giao tiếp, trong dạy học và tương tác phối hợp với phụ huynh. Phương pháp giảng dạy, học tập của một bộ phận giáo viên chưa thực sự đổi mới, đặc biệt là trong bối cảnh chuyển đổi số, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin.
- Cơ chế chính sách về giáo dục bắt buộc chưa kịp thời, chưa đồng bộ và chưa phù hợp với vùng miền. Kinh phí đầu tư cho thực hiện giáo dục bắt buộc, đặc biệt các vùng khó khăn còn hạn hẹp, chưa phù hợp với điều kiện thực tế. Chính sách hỗ trợ đặc biệt cho phát triển các trường dân tộc nội trú, lớp nội trú dân nuôi, lớp bán trú, chính sách hỗ trợ cho trẻ em, học sinh gia đình nghèo, gia đình thuộc diện chính sách xã hội, trẻ em khuyết tật tại các địa bàn, địa phương khó khăn còn chậm.
- Công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của giáo dục bắt buộc nhằm nâng cao dân trí, điều kiện quan trọng để phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống triển khai chưa thực sự đạt hiệu quả. Công tác phối hợp giữa các ban, ngành, đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân với ngành giáo dục tạo sự đồng thuận, tích cực có lúc, có nơi hiệu quả chưa tốt.
4. Những vấn đề đặt ra đối với thực hiện giáo dục tiểu học là giáo dục bắt buộc thời gian tới
Trong bối cảnh hiện nay, thực hiện tốt công tác phổ cập giáo dục, giáo dục bắt buộc sẽ giúp cho mọi công dân trong độ tuổi đều được học tập và đạt đến trình độ học vấn nhất định theo quy định cần được đặc biệt quan tâm. Việc nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học, tiền đề để tiếp tục thực hiện giáo dục tiểu học là giáo dục bắt buộc mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, là cơ hội dành cho tất cả mọi công dân của đất nước có quyền lợi cơ bản, tối thiểu về phát triển của mỗi con người được đảm bảo.
Thời gian tới, để nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, chất lượng giáo dục toàn diện ở tiểu học và thực hiện giáo dục tiểu học là giáo dục bắt buộc theo quy định Luật Giáo dục 2019; đồng thời tiếp tục thực hiện hiệu quả mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục của Trung ương Đảng xác định rõ trong Chỉ thị số 29-CT/TW, ngày 05/01/2024 của Bộ Chính trị khóa XIII “về công tác phổ cập giáo dục, giáo dục bắt buộc, xoá mù chữ cho người lớn và đẩy mạnh phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông”: “Tạo chuyển biến mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện, bảo đảm cho mọi công dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ học tập, hoàn thành phổ cập giáo dục, giáo dục bắt buộc; Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, tạo sự đồng bộ, liên thông, nâng cao chất lượng công tác phổ cập giáo dục, giáo dục bắt buộc”; “Nâng cao vai trò chủ đạo, trách nhiệm quản lý nhà nước, bảo đảm tổ chức thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tăng cường nguồn lực, bảo đảm ngân sách để hoàn thành các mục tiêu về phổ cập giáo dục, giáo dục bắt buộc…”; duy trì chỉ số về tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 của Việt Nam, điểm sáng trong các chính sách đổi mới giáo dục của Việt Nam trong nhiều năm qua được các nước trong khu vực và các tổ chức quốc tế như UNICEF, UNESCO, WB, UNDP đánh giá cao…; theo chúng tôi việc thực hiện giáo dục bắt buộc trước hết là thực hiện giáo dục tiểu học là giáo dục bắt buộc, đây được xác định là bước tất yếu trong việc duy trì, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học, nâng cao chất lượng toàn diện giáo dục tiểu học để thực hiện hiệu quả Chương trình giáo dục phổ thông 2018 ở các cấp học, cần quan tâm đến một số vấn đề sau:
Thứ nhất, Nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của thực hiện giáo dục tiểu học là giáo dục bắt buộc.
Trong một xã hội khi có các quy định về giáo dục bắt buộc, sẽ giúp cho mọi người đều được tiếp cận với các kỹ năng cơ bản như đọc, viết, tính toán, có kiến thức cơ bản về khoa học, lịch sử, văn hóa...từ đó, họ có khả năng tham gia vào các hoạt động của xã hội một cách hiệu quả hơn, có thể truyền đạt những kiến thức và kỹ năng của mình cho những người khác. Theo nhiều nghiên cứu về tâm lý học trẻ em cho thấy, trẻ em được tiếp xúc với giáo dục sớm có thể giúp cho trẻ phát triển toàn diện kỹ năng cơ bản, tư duy phát triển tích cực và tìm kiếm nghề nghiệp trong tương lai, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân và cộng đồng. Đồng thời, giáo dục bắt buộc giúp giảm thiểu tỷ lệ mù chữ và nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng, bởi giáo dục bắt buộc đảm bảo rằng, mọi người trong cộng đồng, xã hội đều có cơ hội tiếp cận với giáo dục cơ bản và được học tập, nếu trẻ em không có cơ hội học tập, sẽ là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng mù chữ và trình độ học vấn thấp.
Vì vậy, cần hiểu đúng, đầy đủ về vị trí, vai trò, ý nghĩa của giáo dục bắt buộc, trước hết là thực hiện giáo dục tiểu học là giáo dục bắt buộc được quy định trong các văn bản của Đảng và Nhà nước. Trong đó, giáo dục tiểu học là giai đoạn giáo dục đầu tiên trong giai đoạn giáo dục cơ bản và được thực hiện trong 5 năm học, từ lớp 1 đến hết lớp 5. Đội tuổi đi học tiểu học từ 6 đến 14 tuổi. Tiếp đến, giáo dục bắt buộc là giáo dục mọi công dân, tức là cá nhân có năng lực pháp lý và năng lực hành vi, có các quyền và nghĩa vụ theo các quy định pháp luật của một quốc gia. Căn cứ pháp lý để xác định công dân của một quốc gia là quốc tịch của cá nhân người đó. Tiếp nữa, để mọi công dân trong độ tuổi quy định bắt buộc phải học tập để đạt trình độ học vấn tối thiểu, tức là trình độ học vấn tối thiểu đối với giáo dục tiểu học của cá nhân đó học tập trong cơ sở giáo dục phổ thông là cá nhân đó phải hoàn thành chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học. Cuối cùng điều kiện để thực hiện giáo dục tiểu học là điều kiện cơ bản nhất theo quy định của Nhà nước (như: trường, cơ sở vật chất, lớp học, sách giáo khóa, thiết bị dạy học, giáo viên và chính sách hỗ trợ cho người dạy, người học, nhà trường…) để tổ chức dạy học giúp cho cá nhân hoàn thành chương trình giáo dục phù hợp với từng cấp học.
Thứ hai. Hoàn thiện thể chế, nghiên cứu ban hành Luật Giáo dục bắt buộc với những quy định, những chế tài cụ thể đối với các chủ thể tham gia, tạo cơ sở pháp lý để thực hiện; ban hành cơ chế chính sách thực hiện giáo dục bắt buộc: học sinh; đội ngũ giáo viên, cán bộ tham gia công tác giáo dục bắt buộc; cơ sở vật chất…) để nâng cao chất lượng giáo dục, tạo điều kiện cho trẻ em, học sinh, đặc biệt là trẻ em, học sinh khuyết tật nặng, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được bình đẳng trong tiếp cận giáo dục cũng phải đạt một trình độ học vấn tối thiểu theo quy định. Trong đó, các quy định cần lưu tâm làm rõ trách nhiệm của Nhà nước, trách nhiệm của các cấp chính quyền, của cha mẹ, người giám hộ, cộng đồng xã hội trong việc thực hiện giáo dục bắt buộc.
Thứ ba, tăng cường nguồn lực, bảo đảm ngân sách nhà nước để hoàn thành các mục tiêu về phổ cập giáo dục giáo dục ở tiểu học, giáo dục bắt buộc; chuẩn bị các điều kiện đảm bảo để thực hiện giáo dục bắt buộc. Nâng cao vai trò chủ đạo, trách nhiệm quản lý nhà nước, bảo đảm các điều kiện cơ bản (miễn học phí, đầu tư đầy đủ các yêu cầu cơ bản cho giáo dục bắt buộc ở cả khu vực công lập và ngoài công lập: sách giáo khoa, dụng cụ học tập, chi phí đi lại, ăn ở…) để tổ chức thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thực hiện giáo dục bắt buộc, trước hết là thực hiện giáo dục tiểu học là giáo dục bắt buộc. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước, phát huy vai trò của Ban chỉ đạo phổ cập giáo dục, xóa mù chữ về giáo dục và đào tạo từ Trung ương đến cơ sở; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; tăng cường kiểm tra, thanh tra, xử lý nghiêm vi phạm. Tiếp tục hoàn thiện mạng lưới trường, lớp, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, bảo đảm điều kiện thực hiện phổ cập giáo dục, giáo dục bắt buộc theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá gắn với quy hoạch hệ thống giáo dục quốc dân, quy hoạch quốc gia, ngành, lãnh thổ. Đặc biệt quan tâm phát triển mạng lưới trường, điểm trường, lớp học; trường dân tộc nội trú, lớp nội trú dân nuôi, lớp bán trú ở địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa. Bởi việc đánh giá kết quả thực hiện phổ cập giáo dục, giáo dục bắt buộc không chỉ căn cứ vào tiêu chí huy động trẻ em đến tuổi đi học, yêu cầu về đối tượng quy định thực hiện giáo dục bắt buộc hàng năm mà còn phải căn cứ, đối chiếu với tiêu chí đầu ra của số học sinh sau khi học xong chương trình theo quy định tương ứng với dân số trong từng độ của địa phương, đất nước. Ngoài ra, cần tạo ra sự đồng bộ, thống nhất và gắn kết giữa các cấp học, từ mầm non, tiểu học đến trung học cơ sở, trung học phổ thông nhằm bảo đảm sự chuyển tiếp hiệu quả trong quá trình học tập của trẻ em, học sinh.
Thứ tư, Tiếp tục quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách của Nhà nước về công tác phổ cập giáo dục nói chung và công tác giáo dục bắt buộc nói riêng, thể hiện sự quan tâm và trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối
thế hệ trẻ, tương lai của đất nước, vì sự phát triển bền vững của dân tộc. Thúc đẩy sự hợp tác, phối hợp chặt chẽ liên ngành giữa các nhà trường, nhà giáo giáo dục, cha mẹ, gia đình, người giám hộ, cộng đồng, doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế, trong đó ngành giáo dục là nòng cốt để cùng nhau đóng góp vào sự phát triển giáo dục của đất nước. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, truyền thông về giáo dục, vận động nâng cao nhận thức của toàn xã hội; biểu dương người tốt việc tốt, những địa phương làm tốt công tác phổ cập giáo dục, giáo dục bắt buộc. Đa dạng các hình thức xã hội hóa giáo dục, với cơ chế, chính sách rõ ràng để khuyến khích, thu hút đầu tư phát triển giáo dục nhưng phải bảo đảm nguyên tắc không thương mại hóa giáo dục và cấm lợi dụng hoạt động giáo dục vì mục đích vụ lợi.
5. Kết luận
Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân. Mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giới tính, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế… đều bình đẳng về cơ hội học tập. Nhà nước thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo môi trường giáo dục an toàn, tạo điều kiện để người học phát huy tiềm năng của mình. Nhà nước và xã hội cần có có đủ các nguồn lực về tài chính, cơ sở vật chất, trường lớp, đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục có năng lực, có trình độ nghề nghiệp để thực hiện giáo dục bắt buộc. Giáo dục bắt buộc ở Việt Nam đã thực hiện trong nhiều năm qua với những thành công nhất định ở kết quả phổ cập giáo dục, xóa mù chữ, nâng cao chất lượng giáo dục ở các cấp học trong hệ thống. Thời gian tới, để tiếp tục thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, tiếp cận với xu hướng giáo dục hiện đại thế giới; đồng thời tiếp tục triển khai có hiệu quả Chương trình giáo dục phổ thông 2018 ở các cấp học; việc thực hiện giáo dục bắt buộc, trước hết là giáo dục tiểu học là giáo dục bắt buộc, là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết và là trách nhiệm của mỗi chúng ta vì sự phát triển của con người nói chung và của trẻ em Việt Nam nói riêng, góp phần cung cấp trình độ học vấn tối thiểu của người dân, bảo đảm cho sự công bằng trong tiếp cận giáo dục cho tất cả mọi người trong xã hội, điều kiện tiên quyết để đạt mục tiêu nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân lực có tri thức và kỹ năng đáp ứng những yêu cầu từng giai đoạn phát triển của đất nước. Dựa trên đặc điểm phát triển tâm, sinh lý lứa tuổi, học sinh tiểu học, lứa tuổi từ 6 đến 11 tuổi, “giai đoạn vàng” để trang bị kiến thức, kỹ năng, hình thành nhân cách, đạo đức, năng lực của mỗi cá nhân, giúp cho mỗi “công dân” sống có trách nhiệm hơn với bản thân, với gia đình và xã hội.
TS. Lê Thị Mai Hoa,
Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục, Ban Tuyên giáo Trung ương
Tài liệu tham khảo:
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
2. Luật Giáo dục năm 2019.
3. Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
4. Chỉ thị số 10-CT/TW, ngày 05/12/2011 của Bộ Chính trị khóa XI“về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, củng cố kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, tăng cường phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và xóa mù chữ cho người lớn”.
5. Chỉ thị số 29-CT/TW, ngày 05/01/2024 của Bộ Chính trị khóa XIII “về công tác phổ cập giáo dục, giáo dục bắt buộc, xoá mù chữ cho người lớn và đẩy mạnh phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông”.
6. Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia: “Giáo dục bắt buộc đối với giáo dục tiểu học”.
7. Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 10-CT/TW, ngày 05/12/2011 của Bộ Chính trị khóa XI “về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, củng cố kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, tăng cường phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và xóa mù chữ cho người lớn”.
8. Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
[1] Tổ hợp các nước ASEAN+6 gồm: các quốc gia khu vực Đông Nam Á: Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Đông Ti Mo, Thái Lan và Việt Nam và bổ sung thêm 6 quốc gia: Úc, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, New Zealand, Hàn Quốc đã phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em, cam kết quốc tế cung cấp giáo dục tiểu học miễn phí cho tất cả trẻ em. Những quyền này đã được đưa vào hầu hết luật pháp quốc gia, sau đó đóng vai trò là một công cụ điều tiết quan trọng yêu cầu công dân của một quốc gia nên thực hiện những gì, như thế nào và khi nào các quyền của họ đối với giáo dục bắt buộc; đều có quy định pháp lý về giáo dục bắt buộc và miễn phí đối với ít nhất một số cấp giáo dục cơ bản, chủ yếu là giáo dục tiểu học. Thời gian giáo dục bắt buộc và miễn phí trung bình ở các nước ASEAN+6 là 7,7 năm (Lào, Myanmar và Việt Nam giáo dục tiểu học là 5 năm, Philippines, Hàn Quốc và Singapore giáo dục tiểu học là 6 năm); độ tuổi thực hiện giáo dục bắt buộc ở phần lớn các quốc gia này bắt đầu từ 6 tuổi (Myanmar, New Zealand trẻ em bắt đầu đi học chính thức từ 5 tuổi; Trung Quốc, Indonesia trẻ em bắt đầu đi học chính thức từ 7 tuổi; New Zealand trẻ em 5 tuổi được ghi danh vào Lớp 0.
[2] Luật số 43/2019/QH14 của Quốc hội khóa XIV.
[3] theo “Từ điển tiếng Việt”.
[4] Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013.
[5] Theo Nghị định số 20/2014/NĐ-CP, ngày 24/3/2014 của Chính phủ, quy định: đối tượng phổ cập giáo dục (PCGD) tiểu học là trẻ em trong độ tuổi từ 6 đến 14 chưa hoàn thành chương trình giáo dục tiểu học. Tiêu chuẩn công nhận đạt chuẩn PCGD tiểu học mức độ 3: Đối với xã: a) Bảo đảm tiêu chuẩn công nhận đạt chuẩn PCGD tiểu học mức độ 2; b) Tỷ lệ trẻ em 6 tuổi vào lớp 1 đạt ít nhất 98%; c) Tỷ lệ trẻ em 11 tuổi hoàn thành chương trình tiểu học đạt ít nhất 90%, đối với xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn đạt ít nhất 80%; các trẻ em 11 tuổi còn lại đều đang học các lớp tiểu học. Đối với huyện: Có ít nhất 90% số xã được công nhận đạt chuẩn PCGD tiểu học mức độ 3. Đối với tỉnh: Có 100% số huyện được công nhận đạt chuẩn PCGD tiểu học mức độ 3.
[6] Theo Chương trình Đánh giá kết quả học tập của học sinh tiểu học các nước Đông Nam Á (SEA PLM) năm 2019: chất lượng giáo dục tiểu học của Việt Nam đứng vào tốp đầu của các nước ASEAN. Trong 6 nước tham gia đánh giá gồm: Việt Nam, Lào, Campuchia, Malaysia, Myanmar, Philippines, học sinh tiểu học Việt Nam đứng đầu ở cả ba năng lực được khảo sát: Đọc hiểu, Viết, Toán học.
[7] Năm 2019, theo điều tra thu thập thông tin của 53 dân tộc thiểu số cho thấy: Tỷ lệ người dân tộc thiểu số từ 15 tuổi trở lên chưa tốt nghiệp tiểu học ở khu vực nông thôn cao hơn hai lần so với thành thị (lần lượt là 27,8% và 13,4%).