Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong phát triển tư duy lý luận của Đảng về kinh tế nói chung và về quan hệ sở hữu nói riêng trên cơ sở nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo điều kiện quan trọng cho bước chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang thị trường, mở đường cho sự hình thành, phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với những thay đổi của hệ thống quan hệ sở hữu. Những chủ trương đường lối của Đảng kể từ Đại hội VI đã đặt ra những yêu cầu mới về xây dựng và không ngừng hoàn thiện quan hệ sở hữu trong quá trình hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1. Quan hệ sở hữu trong quá trình hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Quá trình hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được bắt đầu từ sau Đại hội VI của Đảng. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ trước đổi mới, Đảng ta nhận thức rõ, “Sau khi đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng Tổ quốc, thực hiện thống nhất nước nhà, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân cả nước tiến vào giai đoạn cách mạng mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc... Bên cạnh những thắng lợi giành được, chúng ta đã mắc một số khuyết điểm và sai lầm”[1]. Những khuyết điểm và sai lầm chủ yếu trong nhận thức về quan hệ sở hữu bao gồm: (1) “chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường, và do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết” [2]; (2) từ đó, “chưa xác định rõ ràng, nhất quán những quan điểm, chủ trương và chính sách chỉ đạo công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Đã có những biểu hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa... Trong nhận thức cũng như hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”[3].
Để khắc phục được khuyết điểm, chuyển biến được tình hình, Đảng ta trước hết phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy. Phải nhận thức đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống quy luật khách quan, trong đó các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội ngày càng chi phối mạnh mẽ phương hướng phát triển chung của xã hội.
Trên cơ sở nền tảng lý luận kinh tế của chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và sự tổng kết đánh giá bối cảnh quốc tế, trong nước, Đại hội VI của Đảng đã xác định lại rõ hơn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chính xác hơn vị trí của Việt Nam đang trong chặng đường đầu tiên của quá trình đó, từ đó đã xác định chuẩn xác “nhiệm vụ chủ yếu của chặng đường đầu tiên là xây dựng những tiền đề chính trị, kinh tế, xã hội cần thiết để triển khai công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trên quy mô lớn”[4] và “xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”[5]. Những mục tiêu cụ thể về kinh tế đã được xác định bao gồm: sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ, bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý và đặc biệt là xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trong đó đi đôi với “Củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa...Bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa”[6].
Như vậy, Đại hội VI của Đảng đã nhận thức rõ: “Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan, và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi nước. Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng”[7]. Từ đó, đã xác định đúng đắn chủ thể phát triển kinh tế - xã hội của đất nước không những bao gồm các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu, mà còn bao gồm cả những thành phần kinh tế dựa trên các chế độ sở hữu khác về điều kiện sản xuất, kinh doanh. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn về vị trí, nhiệm vụ của đất nước, Đảng ta đã khắc phục quan điểm sai lầm về loại bỏ các thành phần kinh tế không dựa trên chế độ công hữu trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế có điểm xuất phát thấp. Từ đó đã xác định rõ quan hệ sở hữu đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có tính đa dạng, là cơ sở của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, bao gồm kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và các hình thức kinh tế khác. Sự hình thành hệ thống quan hệ sở hữu đa dạng về các điều kiện sản xuất gắn với sự cần thiết phải sử dụng cơ chế thị trường làm phương phức phát triển kinh tế và yêu cầu phải nhận thức đầy đủ về các quy luật khách quan của nền kinh tế hàng hóa và phương thức quản lý kinh tế của nhà nước cùng phương thức hoạt động của các chủ thể kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội nhiệm kỳ Đại hội VI, Đại hội VII đã khẳng định tính nhất quán, lâu dài của chính sách kinh tế nhiều thành phần với tư cách là điều kiện để tiếp tục cải cách các đơn vị kinh tế dựa trên chế độ công hữu và từng bước thực hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, mở rộng phạm vi hoạt động, hình thức tổ chức cho kinh tế tư nhân. Đại hội VII đã khẳng định cơ chế vận hành của nền kinh tế Việt Nam là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nhận thức rõ hơn sự điều tiết kinh tế của Nhà nước thông qua các công cụ pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác; khẳng định sự cần thiết phải từng bước hình thành và mở rộng đồng bộ các thị trường theo xu hướng phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Đại hội VIII xác định nội dung nhiệm vụ mới của phát triển lực lượng sản xuất thông qua đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, đồng thời tiếp tục bổ sung, cụ thể hóa nhận thức về cơ cấu các thành phần kinh tế và vị trí, vai trò nền tảng của các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu.
Trên cơ sở tiếp tục nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn 15 năm đổi mới, Đại hội IX đã đưa ra nhận thức mới về tiêu chí cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa về kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trên cơ sở nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã chính thức khẳng định sự cần thiết phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại; chính thức xác định rõ mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời đã nhận thức rõ rằng để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trước hết cần phải tập trung xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế về sở hữu, thành phần kinh tế, hệ thống thị trường, kinh tế đối ngoại và thực hiện vai trò của Nhà nước. Đại hội IX tiếp tục cụ thể hóa nhiệm vụ cải cách và phát triển doanh nghiệp nhà nước, yêu cầu phân định rõ chức năng của nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý nhà nước về kinh tế và với tư cách là chủ sở hữu vốn nhà nước trong nền kinh tế thị trường; bổ sung sự cần thiết phải hình thành và phát triển thị trường khoa học và công nghệ.
2. Quan hệ sở hữu trong quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trước hết phải hoàn thiện thể chế sở hữu. Đại hội X tiếp tục bổ sung cụ thể hóa nội dung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó có nhận thức mới về cơ cấu thành phần kinh tế phù hợp hơn với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đại hội X nhấn mạnh phải “Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu…Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài”[8]
Nghị quyết số 21-NQ/T.Ư Hội nghị lần thứ 6 BCHTW Đảng khóa X "về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" đã khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời tiếp tục bổ sung cụ thể hóa nội dung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó có nhận thức mới Hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất kinh doanh phù hợp hơn với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác đinh: “ Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”[9], đưa ra phương hướng cơ bản và định hướng lớn về phát triển kinh tế “phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”[10] “với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối”[11], đồng thời xác nhận xu hướng “Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển”[12]
Đại hội XI đã xác định bổ sung nhận thức khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xác định lại cơ cấu thành phần kinh tế và khẳng định vai trò động lực của kinh tế tư nhân. Để phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, Đảng đã đề ra nhiệm vụ: “Tiếp tục thể chế hoá quan điểm của Đảng về phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản thuộc các hình thức sở hữu, các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế; xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối với các loại tài sản mới như sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu, tài nguyên nước..., quy định rõ quyền, trách nhiệm của các chủ sở hữu đối với xã hội.
Đổi mới, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về sở hữu đối với đất đai, tài nguyên, vốn và các loại tài sản công khác để tài nguyên, vốn và các tài sản công được quản lý, sử dụng có hiệu quả, khắc phục tình trạng thất thoát, lãng phí. Đất đai, tài nguyên, vốn, tài sản do Nhà nước đại diện chủ sở hữu được giao cho các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế sử dụng theo nguyên tắc hiệu quả. Các chủ thể có quyền và nghĩa vụ như nhau trong sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước. Tổng kết hoạt động của Tổng công ty Đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước; nghiên cứu hình thành các tổ chức quản lý đầu tư, kinh doanh có hiệu quả các nguồn vốn, tài sản của Nhà nước; khắc phục tình trạng bộ máy quản lý hành chính tham gia trực tiếp vào các hoạt động kinh doanh thông qua mệnh lệnh hành chính”[13].
“Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp với hình thức sở hữu hỗn hợp như: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên, công ty hợp danh, hợp tác xã cổ phần. Rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định luật pháp về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật của người sở hữu (hội đồng quản trị), quyền và trách nhiệm của người được chủ sở hữu giao quản lý sử dụng các tài sản để kinh doanh (ban giám đốc); phân phối lợi nhuận tạo ra cho người chủ sở hữu, người được giao quản lý sử dụng và người lao động”[14]
Đại hội XII của Đảng tiếp tục đưa ra nhận thức rõ hơn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã xác định đó là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"[15]. Từ đó khẳng định “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”[16]
Đại hội tiếp tục đề ra nhiệm vụ tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, cụ thể là: “Thể chế hóa quyền tài sản (bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt và hưởng lợi từ sử dụng tài sản) của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm công khai, minh bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ công để quyền tài sản được giao dịch thông suốt. Bảo đảm quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và quyền bình đẳng trong việc tiếp cận, sử dụng tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Nâng cao năng lực của các thiết chế và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế trong bảo vệ quyền tài sản”[17]. “Hoàn thiện thể chế bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở hữu và quyền tài sản. Hoàn thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp theo cơ chế thị trường”[18]. “Đẩy mạnh cổ phần hóa, bán vốn tại những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm hoặc không cần giữ cổ phần chi phối, kể cả những doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả. Hoàn thiện thể chế định giá đất đai, tài sản hữu hình và tài sản vô hình (tài sản trí tuệ, thương hiệu,...) trong cổ phần hóa theo nguyên tắc thị trường. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ chính trị, công ích. Tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản lý nhà nước, chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; sớm xóa bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước của các bộ, Ủy ban nhân dân đối với vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp. Thành lập một cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước”[19]. “Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần”[20]. “Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”[21]. “Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp quy mô lớn, chất lượng cao, gắn với các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu”[22].
Đánh giá về sự hoàn thiện quan hệ sở hữu trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa qua hơn 30 năm đổi mới, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khẳng định: “Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn; kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, có nhiều đặc điểm của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách ngày càng hoàn thiện và phù hợp hơn với luật pháp quốc tế, đồng thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn và thực hiện cam kết hội nhập quốc tế. Chế độ sở hữu, các thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp phát triển đa dạng. Các quyền và nghĩa vụ về tài sản được thể chế hóa tương đối đầy đủ. Hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Việc đổi mới, sắp xếp, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh; kinh tế tập thể được quan tâm đổi mới; kinh tế tư nhân ngày càng được coi trọng; đội ngũ doanh nhân không ngừng lớn mạnh; thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt được kết quả tích cực”. Đồng thời Đảng cũng rút ra những hạn chế: “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thực hiện còn chậm… Hiệu quả hoạt động của các chủ thể kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế còn nhiều hạn chế. Việc tiếp cận một số nguồn lực xã hội chưa bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế. Cải cách hành chính còn chậm. Môi trường đầu tư, kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, mức độ minh bạch, ổn định chưa cao. Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy đủ. Quyền sở hữu tài sản chưa được bảo đảm thực thi nghiêm minh”.
Trên cơ sở thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng đã cụ thể hóa rõ hơn nhiệm vụ tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, bao gồm: (1) “Thể chế hóa đầy đủ quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm công khai, minh bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ công để quyền tài sản được giao dịch thông suốt; bảo đảm hiệu lực thực thi và bảo vệ có hiệu quả quyền sở hữu tài sản”. (2) “Hoàn thiện pháp luật về đất đai, tài nguyên để huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên, khắc phục tình trạng tranh chấp, khiếu kiện, tham nhũng, lãng phí trong lĩnh vực này. Công khai, minh bạch việc quản lý, sử dụng đất công; tăng cường giám sát, quản lý chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng đất giao cho các cộng đồng và doanh nghiệp nhà nước”. (3) Tạo thuận lợi cho việc chuyển nhượng hoặc cho thuê quyền sử dụng đất, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất; hỗ trợ tích tụ, tập trung ruộng đất để phát triển công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn và nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, công nghệ cao, gắn với bảo đảm việc làm và thu nhập bền vững của nông dân, giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn”. (4) Hoàn thiện pháp luật về quản lý, khai thác và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Nhà nước giao quyền khai thác tài nguyên cho các doanh nghiệp theo cơ chế thị trường. (5) “Hoàn thiện pháp luật về đầu tư vốn nhà nước, quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản công; phân biệt rõ tài sản đưa vào kinh doanh và tài sản để thực hiện chính sách xã hội. Đầu tư vốn của Nhà nước vào doanh nghiệp theo cơ chế thị trường”. (6) “Hoàn thiện thể chế về sở hữu trí tuệ theo hướng khuyến khích sáng tạo, bảo đảm tính minh bạch và độ tin cậy cao; quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ và thực thi hiệu quả”. (7) “Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng và giải quyết tranh chấp dân sự theo hướng thống nhất, đồng bộ. Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả các thiết chế giải quyết tranh chấp dân sự với các quy trình, thủ tục đơn giản, công khai, minh bạch. Hoàn thiện các quy định về đăng ký và giao dịch tài sản; phát triển hệ thống đăng ký minh bạch, liên thông, dễ tiếp cận, nhất là bất động sản”[23].
Trong bối cảnh mới của phát triển đất nước, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu”[24].
Để đảm bảo cho quan hệ sở hữu phát huy vai trò điều kiện cho phát triển Đảng ta không những xác định rõ vị trí vai trò của từng chủ thể, đặc biệt là Nhà nước trong hoàn thiện quan hệ sở hữu, mà còn chủ trương phát triển những quan hệ hợp tác, liên kết, giao thoa giữa các hình thức sở hữu tạo thuận lợi cho thúc đẩy xã hội hóa sản xuất, phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của các chủ thể kinh tế. “Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giữa Nhà nước, thị trường và xã hội có quan hệ chặt chẽ. Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản”[25], “Tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã, hình thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã”[26], “Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân hợp tác, liên kết với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ; phát triển các công ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của các chủ thể xã hội, nhất là người lao động”[27]. “Bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do kinh doanh, thực thi hợp đồng của người dân, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật”[28].
Những chủ trương lớn trong hoàn thiện quan hệ sở hữu trong bối cảnh mới bao gồm: “Cải cách thể chế về quyền tài sản, tập trung vào các khâu đăng ký sở hữu và sử dụng tài sản, xử lý tài sản thế chấp ngân hàng, thủ tục phá sản. Hoàn thiện pháp luật để huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên, bảo đảm công khai, minh bạch và khắc phục tình trạng tranh chấp, khiếu kiện, tham nhũng, lãng phí. Đổi mới các chính sách quản lý đất đai để khuyến khích và tạo điều kiện tích tụ đất nông nghiệp, phát triển mạnh thị trường quyền sử dụng đất. Đổi mới và thực hiện chế độ quản lý mục đích sử dụng đất nông nghiệp một cách linh hoạt hơn; bãi bỏ các giới hạn về đối tượng được nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp, tăng thời hạn giao đất, cho thuê đất nông nghiệp. Công khai, minh bạch việc quản lý, sử dụng đất công; tăng cường giám sát, quản lý chặt chẽ, nâng cao hiệu qua sử dụng đất giao cho các cộng đồng và doanh nghiệp nhà nước”[29]. “Quản lý và sử dụng hiệu quả tài sản quốc gia, thực hiện tốt chức năng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước”[30].
Tóm lại, cùng với sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hệ thống quan hệ sở hữu, đặc biệt về các điều kiện sản xuất, không ngừng được phát triển hoàn thiện. Những xu hướng lớn chủ yếu bao gồm: (1) đa dạng hóa hình thức sở hữu; (2) sự kết nối, hợp tác, giao thoa giữa các hình thức sở hữu tạo điều kiện mới cho sản xuất lớn; (3) không ngừng hoàn thiện thể chế sở hữu đồng bộ từ xác định và thể chế hóa ngày càng đầy đủ các quyền năng của sở hữu, những đối tượng sở hữu chủ yếu, cơ chế thực hiện các quyền… đến trách nhiệm của Nhà nước trong tiếp tục hoàn thiện thể chế sở hữu, đảm bảo cho hệ thống quan hệ sở hữu ngày càng phù hợp, trở thành điều kiện thuận lợi, khơi dậy các nguồn lực, phát huy động lực cho các hoạt động kinh tế hiệu quả trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
PGS.TS Đoàn Xuân Thủy
Thư ký khoa học HĐLLTW
[1] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1987, tr.11.
[2] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1987, tr.19-20.
[3] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1987, tr.22-23.
[4] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1987, tr.42.
[5] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1987, tr.42.
[6] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1987, tr.44.
[7] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội 1987, tr. 41.
[8] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội 2006, tr.77, 83
[9] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.70
[10] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.72
[11] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.73
[12] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.74
[13] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.206-207
[14] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.209-210
[15] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tr.102
[16] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tr.102-103
[17] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tr.104-105
[18] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tr.105
[19] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tr.106
[20] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tr.107
[21] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tr.108
[22] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tr.108
[23] https://dangcongsan.vn/
[24] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG ST, Hà Nội, 2021, Tập 1, tr.128-129
[25] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG ST, Hà Nội, 2021, Tập 1, tr.130
[26] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG ST, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.130
[27] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG ST, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.130
[28] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG ST, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.223
[29] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG ST, Hà Nội, 2021, Tập 1, tr.238
[30] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG ST, Hà Nội, 2021, Tập 1, tr.286