Sign In

Quan điểm và định hướng phát triển giáo dục mầm non trong giai đoạn mới

15:47 15/01/2024

 

1. Kết quả thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về giáo dục mầm non

Trong hơn 10 năm qua, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá XI một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020 đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, các chính sách xã hội không ngừng được hoàn thiện theo hướng tiến bộ và công bằng. Hệ thống cơ sở y tế, giáo dục, trợ giúp xã hội tiếp tục được đầu tư, mở rộng, nâng cao chất lượng góp phần bảo đảm giáo dục, y tế, nhà ở tối thiểu, nước sạch, thông tin cơ bản cho Nhân dân; người có hoàn cảnh khó khăn được hỗ trợ kịp thời[1].

 

Việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về giáo dục mầm non được xác định trong mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục mầm non[2] về cơ bản, đã hoàn thành các mục tiêu, đặc biệt là mục tiêu hoàn thành phổ cập giáo dục cho trẻ 5 tuổi. Hệ thống mạng lưới trường, lớp mầm non không ngừng được củng cố, mở rộng và phát triển đa dạng các loại hình, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu về giáo dục mầm non của người dân. Cả nước hiện có 15.334 cơ sở giáo dục mầm non, với 19.398 điểm trường (tăng 1.207 cơ sở giáo dục mầm non hay 6,6% so với năm học 2013 - 2014), trong đó, có 3.224 cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập (chiếm tỷ lệ 21,1% và tăng 1.497 cơ sở giáo dục mầm non so với năm học 2013 - 2014), với quy mô 4.476.784 trẻ[3] (tăng 249.737 trẻ hay 5,9% so với năm học 2013 - 2014); tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia tăng nhanh, năm học 2022 - 2023 đạt 55,4% (năm học 2013 - 2014 chỉ đạt 25,3%). Tỷ lệ huy động trẻ em nhà trẻ và trẻ em mẫu giáo 3 - 4 tuổi, 4 - 5 tuổi tăng dần hằng năm. Tỷ lệ huy động trẻ nhà trẻ đạt 32,1% (tăng 7,7% so với năm học 2013 - 2014); tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo đạt 93,1% (tăng 6,0% so với năm học 2013 - 2014). Các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục mầm non dần được quy chuẩn và được đầu tư phát triển theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia đạt 56,9% (tăng 29,3% so với năm học 2013 - 2014).

 

Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục mầm non tăng mạnh về số lượng, chất lượng, từng bước đáp ứng được yêu cầu phát triển giáo dục mầm non. Đến nay, cả nước có 378.381 giáo viên mầm non (tăng 96.914 giáo viên so với năm học 2013 - 2014). Trong đó, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn trở lên đạt 87,3%[4] (giảm 9,1% so với năm học 2013 - 2014); trên chuẩn đạt 65,1% (tăng 9,6% so với năm học 2013 - 2014). Tỷ lệ giáo viên/lớp đạt 1,86 (tăng 0,26 so với năm học 2013 - 2014, nhưng thấp hơn 0,34 so với quy định)[5].

 

Cả nước hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2017[6] (chậm 02 năm so với mục tiêu đề ra); chất lượng phổ cập ngày càng được nâng cao góp phần chuẩn bị điều kiện sẵn sàng cho trẻ em 5 tuổi vào học lớp 1 và học tập tốt ở các cấp học tiếp theo. Tỷ lệ huy động trẻ em mẫu giáo 5 tuổi đạt trên 99,7%; tỷ lệ trẻ em mẫu giáo 5 tuổi hoàn thành Chương trình giáo dục mầm non duy trì trên 99,7%; tỷ lệ trẻ em mẫu giáo 5 tuổi được học 2 buổi/ngày hằng năm đã đạt 99,9%. Việc thực hiện thành công các mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi đã tác động mạnh mẽ đến việc phát triển đội ngũ giáo dục mầm non, quy mô mạng lưới trường, lớp học được mở rộng; đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất được bổ sung đầu tư; chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em mầm non được nâng lên, đặc biệt là huy động tối đa trẻ em mẫu giáo 5 tuổi ra lớp để chuẩn bị mọi điều kiện để cho trẻ em sẵn sàng vào lớp 1.

 

Xã hội hóa giáo dục và đào tạo đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là phát triển các cơ sở giáo dục và đào tạo ngoài công lập. Công tác huy động các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước thông qua đóng góp, đầu tư của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, cộng đồng và đông đảo nhân dân cho phát triển giáo dục và đào tạo đã thu hút đáng kể nguồn lực đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là phát triển các cơ sở giáo dục dân lập, tư thục, góp phần nâng tỷ lệ huy động trẻ em mầm non, học sinh trong độ tuổi ra lớp, hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, đào tạo nguồn nhân lực, phát triển loại hình trường, lớp, chương trình chất lượng cao đáp ứng nhu cầu học tập của người dân, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước.

 

Thực hiện việc phát triển toàn diện trẻ em về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào học lớp một; hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lý, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời.

 

Trong 10 năm qua, Chương trình giáo dục mầm non đã được sửa đổi, bổ sung 02 lần để  điều chỉnh các quy định về nội dung, phương pháp, yêu cầu đánh giá sự phát triển của trẻ theo các kết quả mong đợi ở từng độ tuổi nhằm bảo đảm chuẩn đầu ra của giáo dục mầm non. Chương trình giáo dục mầm non đã được triển khai thực hiện ở 100% cơ sở giáo dục mầm non phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường và địa phương. Các cơ sở giáo dục mầm non đổi mới phương pháp tổ chức hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ, chú trọng vận dụng kiến thức, kỹ năng; bảo đảm tất cả trẻ đều được tạo cơ hội học tập qua chơi và bằng nhiều cách khác nhau, phù hợp với nhu cầu, hứng thú và khả năng của trẻ. Mô hình xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm được triển khai ở hầu hết các cơ sở giáo dục mầm non trong cả nước; mô hình tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non vùng dân tộc thiểu số được triển khai ở hầu hết các tỉnh có đông trẻ em đồng bào dân tộc thiểu số. Việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân đã có nhiều chuyển biến tích cực. Đã có 61/63 tỉnh, thành phố[7] triển khai chương trình làm quen với tiếng Anh dành cho trẻ em mẫu giáo (với 22,4% trẻ em mẫu giáo được làm quen tiếng Anh).

 

Bên cạnh các chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, chính sách thu hút học sinh giỏi vào ngành sư phạm, Đảng và Nhà nước đã quan tâm chăm lo tới đội ngũ nhà giáo trong đó có giáo viên mầm non với nhiều chính sách hỗ trợ ngoài lương để nhà giáo tăng thêm thu nhập như: phụ cấp thâm niên nhà giáo[8]; phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo trực tiếp giảng dạy các cấp học, môn học, đối tượng dạy học theo các mức từ 25% - 70%[9]; phụ cấp vùng miền. Việc thực hiện các chính sách tôn vinh, khen thưởng đội ngũ nhà giáo đã được các địa phương, các cơ sở giáo dục, đào tạo thực hiện kịp thời, đảm bảo công khai, dân chủ, đúng người, đúng thành tích, chú trọng khen thưởng giáo viên, giảng viên trực tiếp đứng lớp, người lao động trực tiếp có nhiều sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, giải pháp công tác đem lại hiệu quả cao, đã tạo động lực quan trọng thúc đẩy để đội ngũ nhà giáo không ngừng đổi mới, sáng tạo, vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Đầu tư cho giáo dục và đào tạo tiếp tục được Đảng và Nhà nước quan tâm. Cơ chế phân bổ ngân sách nhà nước cho lĩnh vực giáo dục đã từng bước


được đổi mới, chuyển dần từ hình thức cấp phát ngân sách sang tài trợ theo kết quả thực hiện nhiệm vụ của các đơn vị sự nghiệp công lập. Năm 2013, tổng chi ngân sách cho giáo dục mầm non, phổ thông là 158.157.753 triệu đồng, chiếm tỉ lệ 76,01% tổng chi ngân sách nhà nước. Năm 2022 là 271.202.041 triệu đồng, chiểm tỉ lệ 97,94%. Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách miễn, giảm học phí, lộ trình miễn học phí cho trẻ em mầm non 5 tuổi đến học sinh cấp trung học cơ sở; hỗ trợ chi phí học tập; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo đối với từng cấp, bậc học tương đối đầy đủ, bao phủ các đối tượng. Với mục tiêu bảo đảm điều kiện về cơ sở vật chất, thiết bị trường học để thực hiện chương trình giáo dục mầm non, đến nay, cả nước có gần 606.210 phòng học cấp mầm non, phổ thổng công lập, trong đó, số phòng học kiên cố 517.920 phòng, đạt tỷ lệ 85%. Hệ thống các phòng học bộ môn, các phòng chức năng được tăng cường đầu tư, bổ sung theo yêu cầu đổi mới giáo dục. Tỷ lệ thiết bị dạy học tối thiểu đáp ứng nhu cầu dạy học đạt 54,3%, trong đó cấp học mầm non đáp ứng 47,9%.

 

Tuy nhiên, chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội nói chung và chính sách cho phát triển giáo dục mầm non vẫn còn một số hạn chế, yếu kém, chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Kết quả giảm nghèo có nơi, có lúc chưa vững chắc, nguy cơ tái nghèo còn cao, phân hoá giàu - nghèo có xu hướng gia tăng; đời sống một bộ phận người dân còn khó khăn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng thường xuyên bị thiên tai; khoảng cách phát triển giữa các địa phương, vùng, miền còn lớn; các dịch vụ xã hội cơ bản chưa đáp ứng được nhu cầu của Nhân dân. Phạm vi bao phủ và khả năng giải quyết rủi ro của các chính sách an sinh xã hội còn thấp. Việc bảo đảm y tế cơ bản; năng lực, chất lượng y tế cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là trong ứng phó với dịch bệnh; tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn cao. Việc thực hiện chính sách nhà ở cho người thu nhập thấp còn nhiều khó khăn; tỉ lệ người dân ở nông thôn được sử dụng nước sạch còn thấp. Mạng lưới trường lớp mầm non còn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển quy mô[10] và nâng cao chất lượng giáo dục, nhất là tại các thành phố lớn, các khu vực có nhiều khu công nghiệp, khu đô thị, vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sông nước, hải đảo, biên giới. Tiếp cận giáo dục mầm non cho trẻ em, đặc biệt là trẻ em dân tộc thiểu số và trẻ khuyết tật còn hạn chế[11]. Chưa hoàn thành được mục tiêu miễn học phí trước năm 2020[12].

 

Mặc dù, số lượng giáo viên mầm non đã được tăng thêm nhưng vẫn còn tình trạng thiếu giáo viên ở nhiều địa phương, đặc biệt là giáo viên mầm non trong các cơ sở giáo dục công lập do số học sinh tăng nhanh trong khi các địa phương phải thực hiện tinh giản biên chế theo lộ trình từ năm 2015 đến năm 2021 giảm 10%.


Hiện nay, giáo viên mầm non thiếu 51.955 giáo viên. Năm 2019, Bộ Chính trị quyết định giao bổ sung 20.300 biên chế giáo viên mầm non, phổ thông cho 14 tỉnh, tăng trưởng nóng về quy mô học sinh và 5 tỉnh Tây Nguyên; giai đoạn 2022 - 2026 giao bổ sung 65.980 biên chế giáo viên mầm non, phổ thông cho toàn quốc[13]; các địa phương đang tích cực triển khai thực hiện việc tuyển dụng số biên chế được giao theo Quyết định số 72-QĐ/TW ngày 18/7/2022 của Bộ Chính trị; bố trí, sắp xếp giáo viên bảo đảm đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu. Trong chi ngân sách cho giáo dục mầm non, phổ thông, thì chi lương và các khoản đóng góp theo lương chiếm phần lớn (khoảng 60%, trong đó cao nhất là năm 2014, chiếm 67,31%; thấp nhất là năm 2020, chiếm 58,66%), chi đầu tư chiếm tỉ lệ nhỏ. Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo 5 tuổi hoàn thành chậm tiến độ 02 năm, chưa hoàn thành được mục tiêu miễn học phí trước năm 2020; nội dung chương trình chưa kịp thời cập nhật với xu thế phát triển của xã hội và các kĩ năng cần có của trẻ trong xã hội hiện đại; chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non ở các vùng nông thôn và vùng khó khăn còn thấp; vẫn còn tình trạng mất an toàn cho trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm non tư thục, nhóm trẻ độc lập. Khoảng gần 500.000 trẻ em mẫu giáo 3-4 tuổi chưa được đến trường, chủ yếu ở vùng khó khăn, vùng núi cao, vùng sông nước Đồng bằng sông Cửu Long; gần 800.000 trẻ em mầm non người dân tộc thiểu số chưa được tới trường, chưa được tiếp cận với giáo dục mầm non.

 

Đại dịch Covid-19 bùng phát nhiều lần trong ba năm vừa qua đã tác động nghiêm trọng đến giáo dục mầm non, trong đó trẻ nhà trẻ, mẫu giáo là những đối tượng chịu thiệt thòi, phần lớn thời gian trẻ không được đến trường, không có điều kiện giao tiếp, vận động, sinh hoạt theo yêu cầu phát triển của độ tuổi, chưa đủ điều kiện về thể chất để được tiêm phòng vắc xin đã ảnh hưởng đến chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ theo chương trình giáo dục mầm non và việc chuẩn bị cho trẻ em 5 tuổi sẵn sàng vào lớp 1. Một số trẻ em thuộc hộ nghèo, trẻ dân tộc thiểu số (không được ăn trưa tại trường), trẻ khuyết tật học hòa nhập, trẻ em là con công nhân mất việc làm…có nguy cơ chậm phát triển. Cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập trong thời gian dài không có doanh thu, đời sống giáo viên hết sức khó khăn, nhiều giáo viên mầm non sau một thời gian nghỉ dịch đã bỏ nghề, chuyển sang các công việc khác. Nhiều trường mầm non ngoài công lập giải thể, đóng cửa trường, đối mặt với nguy cơ vỡ nợ về tài chính. Những hạn chế này là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng giáo dục chưa đạt của các cấp học tiếp theo.

 

2. Bối cảnh phát triển giáo dục mầm non trong giai đoạn mới

 

Những năm tới, trước những diễn biến phức tạp, khó dự báo của tình hình thế giới, khu vực; những thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống ngày càng gia tăng, diễn biến phức tạp. Khoa học-công nghệ và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo ra cả thời cơ và thách thức mới đối với mọi quốc gia, dân tộc; đã và đang tác động mạnh mẽ, đa chiều tới mọi lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…với các cấp độ từ toàn cầu đến châu lục, khu vực và trong từng quốc gia. Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo rất nhiều ngành nghề bị đào thải và nhiều ngành nghề mới sẽ xuất hiện[14], giáo dục chỉ đơn thuần tập trung vào truyền đạt kiến thức không còn phù hợp nữa mà cần có những thay đổi rõ rệt và hiệu quả hơn. Trong đó, giáo dục, đào tạo tư duy và kỹ năng được xem là chìa khóa cốt lõi của giáo dục hiện đại, nơi giáo dục và đào tạo ra nguồn nhân lực sẵn sàng thích nghi, thích ứng trước mọi sự thay đổi, với những yếu tố rất “con người” mà máy móc không thể thay thế ngày càng được chú trọng. Xu thế này kích thích mọi người phải học suốt đời và biết cách học nhằm làm tăng “vốn tri thức” hàng ngày; chịu khó học hỏi, ham hiểu biết để hoàn thiện mình yêu cầu đối với sản phẩm giáo dục và đào tạo ngày càng nâng cao về chất lượng, phát triển bằng trí tuệ là chính…

 

3. Quan điểm, định hướng chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục mầm non đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới

 

Giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của Đảng và Nhà nước. Trong đó phát triển giáo dục mầm non là vấn đề đặt ra thu hút sự quan tâm của xã hội, là nhu cầu, nguyện vọng của mỗi gia đình, cộng đồng và địa phương.

Trong giai đoạn mới, phát triển giáo dục mầm non cần bám sát các quan điểm, định hướng, mục tiêu trong các nghị quyết, kết luận của Đảng, từ đó tiếp tục hoàn thiện thể chế, xây dựng chính sách, pháp luật phát triển giáo dục mầm non để phát triển toàn toàn diện con người Việt Nam về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành yếu tố đầu tiên của nhân cách, nền tảng vững chắc cho xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời đã được khẳng định qua các văn kiện quan trọng của Đảng:

- Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ chăm lo phát triển giáo dục mầm non “Tăng cường giáo dục, kiến thức, kỹ năng bảo vệ trẻ em. Tiến tới phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em dưới 5 tuổi. Phát triển hệ thống dịch vụ bảo vệ trẻ em. Giảm tỷ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi xuống còn 18,5%, dưới 1 tuổi xuống còn 12,5%. Thực hiện chế độ dinh dưỡng hợp lý, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể thấp còi giảm xuống 20%” ; đồng thời, trong xu thế hội nhập quốc tế sâu rộng, hợp tác với những diễn biến khó lường, yêu cầu đặt ra là cần tập trung nâng cao chất lượng, trọng tâm hiện đại hóa giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chính vì vậy, giáo dục mầm non đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới giữ vai trò đặc biệt quan trọng bởi đây được coi là “Giai đoạn vàng” để giáo dục và tạo nền móng cho sự phát triển nguồn nhân lực trong tương lai. Nhiệm vụ của giáo viên mầm non, thành tố cấu thành đội ngũ trí thức của đất nước cần có trình độ học vấn, có chuyên môn, có trách nhiệm giáo dục thế hệ trẻ, giúp trẻ em mầm non phát triển tư duy sáng tạo, tư duy logic, tính thẩm mỹ,… để giáo dục trẻ em tiếp cận với các chủ đề kiến thức, chương trình giáo dục một cách tự nhiên, chủ động, linh hoạt trong sáng tạo, nâng cao hiệu suất học tập và cải thiện những kỹ năng mềm cho trẻ em.

- Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới”[15] xác định quan điểm: “Chính sách xã hội là chính sách chăm lo cho con người, vì con người, lấy con người làm trung tâm, là chủ thể, mục tiêu, động lực, nguồn lực để phát triển bền vững đất nước; tăng trưởng kinh tế gắn với bảo đảm chính sách xã hội; tạo điều kiện để Nhân dân được thụ hưởng thành quả của sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội theo hướng toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững; xây dựng và thực hiện chính sách xã hội phải đặt trong tổng thể quản lý phát triển xã hội bền vững; giải quyết hài hoà các quan hệ xã hội, kiểm soát phân hoá xã hội, bảo đảm an sinh cho Nhân dân trong quá trình phát triển; đầu tư cho chính sách xã hội là đầu tư cho phát triển. Chú trọng huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực đúng mục tiêu, phù hợp với khả năng của nền kinh tế, thu nhập của Nhân dân, trong đó nguồn lực nhà nước đóng vai trò chủ đạo, nguồn lực của xã hội là quan trọng; kết hợp nguồn lực trong nước và ngoài nước; động viên sự tham gia tích cực của Nhân dân, doanh nghiệp; khơi dậy khát vọng phát triển, ý chí tự lực, tự cường; phát huy truyền thống tương thân tương ái, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc”. Nghị quyết đề ra mục tiêu đến năm 2030:

 

- Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi. Bảo đảm vững chắc mức sinh thay thế của quốc gia; tuổi thọ trung bình của người dân khoảng 75 tuổi, số năm sống khoẻ đạt tối thiểu 68 năm; chỉ số phát triển con người (HDI) thuộc nhóm cao trong khu vực; tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thể thấp còi dưới 15%; 100% hộ gia đình chăm sóc trẻ em dưới 36 tháng tuổi, phụ nữ mang thai, người cao tuổi thuộc hộ nghèo, cận nghèo được hưởng trợ cấp xã hội theo quy định; bảo đảm mức sống tối thiểu cho người có hoàn cảnh khó khăn; trợ cấp xã hội cho hộ nghèo không có khả năng thoát nghèo;

 

- Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám khóa XI “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, với mục tiêu “nâng cao chất lượng phổ cập trong những năm tiếp theo và miễn học phí trước năm 2020. Từng bước chuẩn hóa hệ thống các trường mầm non. Phát triển giáo dục mầm non dưới 5 tuổi có chất lượng, phù hợp với điều kiện của từng địa phương và cơ sở giáo dục”.

 

- Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 05/01/2024 của Bộ Chính trị khóa XIII về “công tác phổ cập giáo dục, giáo dục bắt buộc, xóa mù chữ cho người lớn và đẩy mạnh phân luồng trong giáo dục phổ thông”, Bộ Chính trị yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội “Tập trung lãnh đạo chỉ đạo, tạo chuyển biến mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện, bảo đảm cho mọi công dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ học tập, hoàn thành phổ cập giáo dục” .

 

4. Một số đề xuất, khuyến nghị

 

Chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em là vấn đề có tính chiến lược, lâu dài, góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới. Đầu tư cho trẻ em là đầu tư cho nguồn nhân lực có chất lượng, góp phần nâng cao dân trí cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

 

Để thực hiện thành công đột phá chiến lược phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao việc tăng cường công tác quản lý nhà nước về chăm sóc và giáo dục trẻ em mầm non; huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực, thực hiện các mục tiêu phát triển vì trẻ em và thực hiện phổ cập giáo dục mầm non, tạo cơ hội tiếp cận bình đẳng, mở rộng chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội cho trẻ em, đặc biệt là trẻ em thuộc gia đình nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, trước hết cần chú trọng chính sách ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục mầm non; tăng cường nguồn lực bảo đảm ngân sách để duy trì, củng cố, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo 3 tuổi, 4 tuổi; đẩy mạnh xã hội hóa, tạo điều kiện cho cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức trong và ngoài nước đầu tư xây dựng trường, lớp mầm non, nhà trẻ ngoài công lập tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn...để từng bước hiện thực hóa những định hướng quan trọng của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục và đào tạo nói chung và giáo dục mầm non nói riêng, trong giai đoạn mới và thực hiện thành công mục tiêu thu hút trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo được đến cơ sở giáo dục mầm non; nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ em mẫu giáo, trẻ em mầm non, giảm tỷ lệ trẻ em mẫu giáo suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, giảm tỷ lệ trẻ em mầm non suy dinh dưỡng thể thấp còi, giảm tỷ lệ trẻ em mầm non thừa cân, béo phì…, phấn đấu 100% trẻ em mầm non, trẻ em mẫu giáo được học 2 buổi/ngày tại các cơ sở giáo dục mầm non theo chương trình giáo dục mầm non nhằm chuẩn bị tốt về thể chất, trí tuệ, thẩm mỹ, ngôn ngữ và tâm lý sẵn sàng đi học lớp 1.

 

TS. Lê Thị Mai Hoa, Ban Tuyên giáo Trung ương



[1] Theo đánh giá về tình hình 10 năm qua, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá XI một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020 tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 24/11/2023).

[2] Theo đánh giá kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2023 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

[3] Trong đó có 613.752 trẻ em nhà trẻ và 3.863.032 trẻ em mẫu giáo.

[4] Theo Luật Giáo dục 2019, thực hiện nâng chuẩn trình độ đào tạo từ trung cấp sư phạm lên cao đẳng.

[5] Theo Thông tư liên tịch số 06/2015/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 16/3/2023 quy định về danh mục khung vị trí việc làm và định mức số lượng người làm việc trong các cơ sở giáo dục mầm non công lập.

[6] Năm học 2013-2014, cả nước mới chỉ có 18 tỉnh, thành phố được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi.

[7] Còn Hải Dương, Nam Định chưa thực hiện được.

[8] Theo Nghị định số 77/2021/NĐ-CP ngày 01/8/2021 của Chính phủ quy định chế độ phụ cấp thâm niên nhà giáo.

[9] Quyết định số 244/2005/QĐ-TTg ngày 06/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo đang trực tiếp giảng dạy trong các cơ sở giáo dục công lập; Thông tư liên tịch số 01/2006/TTLTBGD&ĐT-BNV-BTC, ngày 23/01/2006 của liên bộ Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Quyết định số 244/2005/QĐ-TTg; Nghị định số 113/2015/NĐ-CP ngày 09/11/2015 của Chính phủ quy định phụ cấp đặc thù, phụ cấp ưu đãi, phụ cấp trách nhiệm công việc và phụ cấp nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm đối với nhà giáo trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập; Thông tư số 22/2017/TT-BLĐTBXH ngày 10/8/2017 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 113/2015/NĐ-CP ngày 09/11/2015 của Chính phủ quy định phụ cấp đặc thù, phụ cấp ưu đãi, phụ cấp trách nhiệm công việc và phụ cấp nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm đối với nhà giáo trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập.

[10] Hiện vẫn còn 6,9% trẻ em mầm non và 67,9% trẻ em nhà trẻ chưa được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục tại các cơ sở giáo dục mầm non để tiếp cận Chương trình giáo dục mầm non.

[11] Tỷ lệ huy động trẻ em 5 tuổi là người dân tộc thiểu số thấp hơn so với cả nước lần lượt là 7% đối với trẻ em nhà trẻ và 1% đối với trẻ em mẫu giáo; tỷ lệ trẻ khuyết tật đi học chỉ chiếm 0,12% tổng số trẻ  em mầm non đi học, trong khi nhóm này chiếm 2,79% tổng số trẻ mầm non toàn quốc.

[12] Chính sách miễn học phí mới chỉ áp dụng đối với đối tượng trẻ em học lớp mẫu giáo 5 tuổi ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn có cha mẹ hoặc có cha hoặc có mẹ hoặc có người chăm sóc trẻ em hoặc trẻ em thường trú ở xã, thôn đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi, các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển, hải đảo từ năm học 2018 - 2019. Trẻ em mầm non 5 tuổi ở các vùng còn lại (không thuộc vùng thôn/bản đặc biệt khó khăn, xã khu vực III vùng dân tộc và miền núi, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển, hải đảo) dự kiến sẽ được miễn học phí từ năm học 2024 - 2025 theo lộ trình quy định tại Nghị định số 81/2021/NĐ-CP ngày 27/8/2021 của Chính phủ

[13] Quyết định số 72-QĐ/TW ngày 18/7/2022 của Bộ Chính trị.

[14] Theo dự đoán của Diễn đàn Kinh tế thế giới, đến năm 2025 con người chỉ chiếm khoảng 48% lực lượng lao động, còn máy móc và các thuật toán chiếm đến 52%.

[15] Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 24/11/2023.

Tag:

File đính kèm