Đưa Nghị quyết 57-NQ/TW vào thực tiễn ở Lào Cai: Từ nền tảng thể chế đến đột phá hạ tầng số và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo
Trong bối cảnh yêu cầu phát triển nhanh và bền vững ngày càng cao, việc triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh Lào Cai đã và đang trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của cả hệ thống chính trị. Bức tranh tổng thể đến hết quý III năm 2025 cho thấy một quá trình chuyển động mạnh mẽ, bài bản, có trọng tâm, trọng điểm, vừa khẳng định quyết tâm chính trị, vừa từng bước hình thành những nền tảng căn bản cho mô hình chính quyền số hai cấp, kinh tế số và xã hội số, tạo tiền đề cho các đột phá mới trong giai đoạn tiếp theo.

Xuyên suốt quá trình tổ chức thực hiện, điểm nhấn đầu tiên và xuyên suốt là sự vào cuộc rất sớm, rất quyết liệt và đồng bộ của cấp ủy, chính quyền và Ban Chỉ đạo. Chỉ tính riêng trong khoảng thời gian từ ngày 01/7/2025 đến ngày 01/10/2025, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh và Ban Chỉ đạo cấp tỉnh đã ban hành 41 văn bản để cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết 57, bảo đảm dòng chảy chỉ đạo được duy trì liên tục, kịp thời, có địa chỉ, có trọng tâm, gắn với trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị, địa phương. Song song với đó, 99/99 xã, phường đã thành lập, kiện toàn Ban Chỉ đạo cấp cơ sở với người đứng đầu cấp ủy, chính quyền làm Trưởng ban, ban hành kế hoạch, chương trình hành động riêng, tạo nên một “mạng lưới chỉ đạo” phủ kín từ tỉnh đến cơ sở, bảo đảm nghị quyết không dừng lại ở văn bản, mà thẩm thấu vào thực tiễn quản lý, điều hành hằng ngày.
Trên trục nhiệm vụ do Trung ương giao, Lào Cai hiện được giao tổng cộng 164 nhiệm vụ về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Đến hết quý III năm 2025, tỉnh đã hoàn thành 73 nhiệm vụ, trong đó 70 nhiệm vụ hoàn thành đúng hạn và chỉ có 03 nhiệm vụ hoàn thành quá hạn; 90 nhiệm vụ đang được triển khai đúng tiến độ, duy nhất 01 nhiệm vụ đang thực hiện trong tình trạng chậm tiến độ cần phải tập trung chỉ đạo tháo gỡ, phản ánh rõ sự chủ động, tích cực của tỉnh trong việc “bám sát” và “đi cùng nhịp” với chương trình hành động của Trung ương, đồng thời nêu rõ những “điểm trũng” tiến độ để có cơ sở siết lại kỷ cương, kỷ luật hành chính.
Đối với nhóm nhiệm vụ do Ban Chỉ đạo cấp tỉnh giao, trong quý III năm 2025, Ban Chỉ đạo đã tổ chức 02 phiên họp, Thường trực Ban Chỉ đạo họp 01 phiên và qua đó giao 63 nhiệm vụ cụ thể cho các sở, ban, ngành, địa phương. Đến nay, có 36 nhiệm vụ đã hoàn thành, chiếm 50%; 22 nhiệm vụ đang triển khai, trong đó 16 nhiệm vụ thực hiện trong hạn và 06 nhiệm vụ chậm tiến độ; 07 nhiệm vụ đang chờ Trung ương triển khai, chuyển giao và 01 nhiệm vụ giao Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh nghiên cứu triển khai theo Đề án của Trung ương.
Đối với các nhiệm vụ của Đề án chuyển đổi số trong các cơ quan Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội theo Quyết định số 204-QĐ/TW ngày 29/11/2024 của Ban Bí thư và Kế hoạch số 11-KH/BCĐTW ngày 27/3/2025 của Ban Chỉ đạo chuyển đổi số trong các cơ quan đảng Trung ương. Tỉnh ủy, Ban Chỉ đạo đã giao 63 nhiệm vụ cho các cơ quan, đơn vị trong khối này, gồm 36 nhiệm vụ thường xuyên và 27 nhiệm vụ có thời hạn. Đến nay, trong nhóm nhiệm vụ có thời hạn, 19 nhiệm vụ đã được hoàn thành, 03 nhiệm vụ đang triển khai và 05 nhiệm vụ đã được đề xuất dừng do Trung ương triển khai thống nhất, chuyển giao miễn phí cho các địa phương. Cách làm này thể hiện rõ nguyên tắc “không làm lại những việc Trung ương đã làm, không đầu tư trùng lặp, lãng phí”, đồng thời cho phép tỉnh tập trung nguồn lực vào những khâu “gốc” mà địa phương phải tự chủ động hoàn thiện.
Trên nền tảng lãnh đạo, chỉ đạo đó, một trong những trụ cột quan trọng hàng đầu là hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Ban Chỉ đạo tỉnh đã chỉ đạo Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh chủ trì tham mưu đồng bộ ba nhóm chính sách lớn: thứ nhất, xây dựng Quy định về Quỹ đầu tư mạo hiểm cho đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, cùng với Quy định về “Sandbox – khung pháp lý thử nghiệm có kiểm soát”, tạo không gian pháp lý linh hoạt để thử nghiệm các mô hình, công nghệ mới, chấp nhận rủi ro có kiểm soát nhưng luôn đặt người dân, doanh nghiệp, an toàn hệ thống lên hàng đầu; thứ hai, xây dựng Quy định về cơ chế “khoán chi theo sản phẩm đầu ra cuối cùng” đối với các nhiệm vụ khoa học và công nghệ và Quy định về “ưu tiên mua sắm sản phẩm đổi mới sáng tạo sản xuất tại tỉnh”, qua đó chuyển trọng tâm từ “chi cho quá trình” sang “chi cho kết quả”, đồng thời khuyến khích mạnh mẽ thị trường địa phương tiêu thụ sản phẩm công nghệ “Made in Lào Cai”; thứ ba, tham mưu ban hành Nghị quyết về chính sách “Trải thảm đỏ” thu hút chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, tạo đột phá về nguồn lực chất lượng cao. Cả ba nhóm chính sách này đều được đặt mục tiêu hoàn thành trước ngày 30/12/2025, hình thành một khung thể chế tương đối hoàn chỉnh để quản lý, điều hành chuyển đổi số theo mô hình chính quyền số hai cấp, tạo động lực mới cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở Lào Cai.
Nghị quyết 57 không chỉ nhấn mạnh chuyển đổi số trong quản lý nhà nước, mà còn coi phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là “trái tim” của động lực tăng trưởng mới. Tại Lào Cai, định hướng này được cụ thể hóa trước hết bằng việc xây dựng lộ trình đổi mới công nghệ đến năm 2035, tập trung vào 05 lĩnh vực mũi nhọn gắn chặt với lợi thế của tỉnh: khai khoáng - chế biến sâu, nông nghiệp đặc sản vùng cao, công nghiệp chế biến vật liệu, du lịch thông minh - bền vững và logistics - kinh tế cửa khẩu. Việc xác định rõ các “trục công nghệ chiến lược” như vậy vừa giúp định vị Lào Cai trong bản đồ phát triển vùng Trung du và miền núi phía Bắc, vừa là căn cứ để sắp xếp, ưu tiên nguồn lực đầu tư công và thu hút FDI, PPP, vốn tư nhân cho các dự án khoa học công nghệ và chuyển đổi số có tác động lan tỏa cao.
Hệ thống cơ sở đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ trên địa bàn tuy chưa lớn về số lượng nhưng đang từng bước được định hình, hướng tới tương thích với định hướng này. Toàn tỉnh hiện có 02 trường cao đẳng và 01 phân hiệu đại học, trong đó Trường Cao đẳng Lào Cai nổi bật với thế mạnh về kỹ thuật, dịch vụ, nông nghiệp và y tế, có khả năng đào tạo 24 ngành nghề trình độ cao đẳng, 27 nghề trình độ trung cấp và 27 nghề trình độ sơ cấp, với mục tiêu tuyển sinh từ 5.000 đến 7.000 sinh viên/năm, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm đạt khoảng 80% trở lên. Cùng với đó là hệ thống 15 tổ chức hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, gồm 10 tổ chức công lập và 05 tổ chức ngoài công lập, hoạt động trong các lĩnh vực nông nghiệp, khoa học kỹ thuật, công nghệ, y dược, kiểm định, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, đá quý, kim cương, tư vấn kỹ thuật xây dựng, giao thông.
Tín hiệu tích cực xuất hiện rõ hơn trong hệ sinh thái khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo. Cấp tỉnh đang từng bước hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo gắn kết “ba nhà”: chính quyền - viện, trường - doanh nghiệp. Sở Khoa học và Công nghệ đã chủ trì làm việc với các bên liên quan để xây dựng dự thảo Kế hoạch hợp tác ba nhà, tham mưu trình Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành, đồng thời tham mưu thiết kế các chính sách nền tảng như Quỹ đầu tư mạo hiểm, khung pháp lý thử nghiệm (Sandbox), chính sách “Trải thảm đỏ” thu hút chuyên gia, nhà khoa học. Không chỉ dừng lại ở chính sách, các cơ sở giáo dục - đào tạo như Phân hiệu Đại học Thái Nguyên tại Lào Cai, Trường Cao đẳng Lào Cai, Trường Cao đẳng nghề Yên Bái và một số trường trung học phổ thông đã triển khai nhiều chương trình thí điểm về kỹ năng số, AI, IoT; nhiều dự án nghiên cứu ứng dụng, mô hình STEM/STEAM đạt giải cao cấp tỉnh, quốc gia, trong đó có các dự án gắn trực tiếp với yêu cầu thực tiễn như hệ thống cảnh báo sạt lở ứng dụng AI và IoT, mô hình sản xuất giấm gỗ sinh học. Đây chính là “hạt giống” của nguồn nhân lực số, của tinh thần khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ngay từ trong trường học, góp phần tạo mặt bằng nhận thức mới về vai trò của khoa học - công nghệ và chuyển đổi số trong phát triển địa phương.
Một trụ cột khác, thể hiện rõ dấu ấn của Lào Cai trong triển khai Nghị quyết 57, là lĩnh vực chuyển đổi số trong hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Trong khối Đảng, tỉnh đã bước đầu triển khai và đưa vào sử dụng các hệ thống, ứng dụng số phục vụ trực tiếp công tác lãnh đạo, chỉ đạo như phần mềm báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW, phần mềm theo dõi, quản lý lịch công tác của cấp ủy, phần mềm phòng họp không giấy tờ. Đây không chỉ là những công cụ kỹ thuật đơn thuần, mà còn là các “nền tảng hành vi” góp phần thay đổi thói quen điều hành, giảm lệ thuộc hồ sơ giấy, tăng cường sử dụng dữ liệu thời gian thực trong họp, giao ban, kiểm tra, giám sát.
Trong khối chính quyền, tỉnh tiếp tục đẩy mạnh triển khai các nền tảng, ứng dụng số dùng chung và chuyên ngành phục vụ điều hành, xử lý công việc, giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người dân, doanh nghiệp. Đáng chú ý, việc tái cấu trúc quy trình và cung cấp dịch vụ công trực tuyến được tổ chức theo bốn nhóm nhiệm vụ lớn: nhóm 25 dịch vụ công trực tuyến toàn trình đã được triển khai đầy đủ, tích hợp lên Cổng dịch vụ công quốc gia; nhóm 82 thủ tục hành chính thực hiện cung cấp dịch vụ công liên thông tại cấp xã; nhóm 982 dịch vụ công trực tuyến trên địa bàn tỉnh, trong đó 590 thủ tục đủ điều kiện thực hiện toàn trình hoặc một phần (418 dịch vụ công trực tuyến cấp tỉnh, gồm 314 dịch vụ toàn trình và 104 dịch vụ một phần; 172 dịch vụ công trực tuyến cấp xã, gồm 65 toàn trình và 107 một phần); nhóm 1.139 thủ tục hành chính đã cơ bản được tích hợp lên Cổng dịch vụ công quốc gia, nhiều thành phần hồ sơ đã được số hóa, thay thế bằng dữ liệu gốc như đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy khai sinh, khai tử, căn cước công dân.
Chất lượng dịch vụ công trực tuyến tiếp tục được cải thiện rõ rệt. Chỉ trong giai đoạn từ ngày 01/7/2025 đến ngày 07/10/2025, toàn tỉnh đã tiếp nhận 216.948 hồ sơ, trong đó 191.653 hồ sơ được nộp trực tuyến và 25.278 hồ sơ nộp trực tiếp; tỷ lệ nộp trực tuyến đạt 88,34% và tỷ lệ trả kết quả trực tuyến đạt 98%. Đây là con số thể hiện rất rõ xu thế “dịch chuyển lên môi trường số” của người dân, doanh nghiệp, đồng thời phản ánh mức độ vận hành tương đối thông suốt của các hệ thống số, nếu so với một địa bàn miền núi, biên giới, địa hình phức tạp như Lào Cai. Tỉnh cũng đã ban hành, triển khai phương án bảo đảm 100% thủ tục hành chính được thực hiện không phụ thuộc địa giới hành chính trong phạm vi cấp tỉnh và 100% thủ tục liên quan đến doanh nghiệp được thực hiện trực tuyến, thông suốt, liền mạch, với mục tiêu hoàn thành trước ngày 31/12/2025.
Đặc biệt, việc xây dựng và hoàn chỉnh Đề án thí điểm xây dựng cửa khẩu thông minh tại cửa khẩu quốc tế đường bộ số II (Kim Thành) và lối thông quan Bản Vược, xã Bát Xát đã tạo dấu ấn rõ ràng về tầm nhìn gắn kết chuyển đổi số với phát triển kinh tế cửa khẩu, logistics và hợp tác biên mậu. Đề án hướng tới giải quyết căn cơ tình trạng ùn ứ hàng hóa, giảm chi phí vận chuyển, thông quan, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, tăng thu ngân sách, đồng thời góp phần chống buôn lậu, gian lận thương mại, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và chủ quyền biên giới quốc gia.
Hạ tầng số - “xương sống” của chuyển đổi số cũng được đầu tư nâng cấp mạnh mẽ. Toàn tỉnh hiện có 4.607 trạm thu phát sóng thông tin di động, trong đó 1.546 trạm 3G, 2.955 trạm 4G và 106 trạm 5G. Hệ thống 5G đã được triển khai tại các khu công nghiệp, đô thị, trung tâm thương mại, du lịch và khu vực chính trị - văn hóa ở các xã, phường trọng điểm, từng bước mở rộng tới các khu dân cư tập trung. Mạng cáp quang phủ rộng khắp, tỷ lệ thôn, bản, tổ dân phố được phủ sóng di động 4G đạt 98,8%, tỷ lệ thuê bao di động sử dụng internet băng rộng đạt 87,2% và thuê bao di động sử dụng smartphone đạt tới 99%. Song bên cạnh đó, vẫn còn 43 thôn chưa có internet băng rộng cố định, 33 thôn, bản ở tình trạng lõm sóng hoặc trắng sóng di động và 43 thôn, bản chưa được phủ điện lưới quốc gia, buộc phải dùng thủy điện nhỏ hoặc điện mặt trời. Những “vùng trắng hạ tầng” này chính là điểm nghẽn mà tỉnh phải tiếp tục tập trung nguồn lực, kể cả huy động hợp tác quốc tế, để bảo đảm “không ai bị bỏ lại phía sau” trong tiến trình chuyển đổi số.
Song song với hạ tầng viễn thông, Lào Cai đã hình thành hệ thống trung tâm dữ liệu tương đối đồng bộ, phục vụ cả khối Đảng và khối Nhà nước. Trong khối Đảng, Văn phòng Tỉnh ủy quản lý 02 trung tâm dữ liệu đặt tại phường Yên Bái và phường Cam Đường, với tổng số 07 máy chủ vật lý, lưu trữ các phần mềm, cơ sở dữ liệu quan trọng như cơ sở dữ liệu đảng viên, quản lý cán bộ, hệ thống Ủy ban Kiểm tra, phần mềm số hóa tài liệu của Tỉnh ủy, các hệ thống điều hành tác nghiệp và website nội bộ đã đóng gói, lưu trữ an toàn. Riêng hai phần mềm số hóa tài liệu của Tỉnh ủy đang lưu trữ 6.147.333 trang tài liệu tại trung tâm dữ liệu phường Yên Bái và 2.912.171 trang tại trung tâm dữ liệu phường Cam Đường, tạo nền tảng quan trọng cho công tác lưu trữ, tra cứu, bảo vệ tài liệu lịch sử Đảng trong môi trường số.
Trong khối cơ quan nhà nước, tỉnh hiện có 02 trung tâm dữ liệu vật lý và 01 trung tâm dữ liệu thuê dịch vụ công nghệ thông tin. Trung tâm dữ liệu cơ sở 1 đặt tại phường Yên Bái, vận hành từ ngày 30/7/2022, có 33 máy chủ vật lý, tổng dung lượng lưu trữ 250 TB (đã sử dụng 190 TB, tương đương 76%), dung lượng sao lưu dự phòng 30 TB (đã sử dụng 19 TB, tương đương 63%), hiện đang vận hành 51 hệ thống ứng dụng, cơ sở dữ liệu. Trung tâm dữ liệu cơ sở 2 đặt tại phường Cam Đường, vận hành từ năm 2004, có 25 máy chủ vật lý, tổng dung lượng lưu trữ 412 TB (đã sử dụng 294 TB, tương đương 71%), dung lượng sao lưu dự phòng 385 TB (đã sử dụng 244 TB, tương đương 63%), đang vận hành 28 hệ thống ứng dụng, cơ sở dữ liệu. Bên cạnh đó, trung tâm dữ liệu thuê dịch vụ công nghệ thông tin (thời gian thuê từ 16/01/2025 đến 31/12/2026) có 43 máy chủ, dung lượng lưu trữ 140 TB (đã sử dụng 53 TB, tương đương 38%), phục vụ 09 hệ thống ứng dụng, cơ sở dữ liệu. Tổng thể ba trung tâm này đang tạo ra một không gian lưu trữ và xử lý dữ liệu đủ lớn, đủ an toàn, cho phép Lào Cai triển khai các nền tảng số diện rộng, đặc biệt là các hệ thống hội tụ dữ liệu thời gian thực phục vụ điều hành, giám sát.
Cùng với đó, tỉnh đã hình thành Trung tâm điều hành đô thị thông minh (IOC) cấp tỉnh trực thuộc Sở Khoa học và Công nghệ và một số IOC cấp địa phương, với mô hình tổ chức, hạ tầng ban đầu gồm phòng IOC, màn hình ghép, máy chủ, đường truyền, một số thiết bị IoT; phần mềm IOC phiên bản 1.0 hiện đã tích hợp khoảng 17 hệ thống, dịch vụ, trong đó có những hệ thống có tính “đặc sản” như giám sát khai thác khoáng sản, giám sát phương tiện quá tải, theo dõi dư luận mạng. Đây là bước đi quan trọng để trong tương lai, các dữ liệu rời rạc từng bước được gom lại, trở thành cơ sở để phân tích, dự báo, hỗ trợ ra quyết định chính sách ở cấp tỉnh, cấp huyện.
Ở góc độ số hóa tài liệu và dữ liệu, một khối lượng công việc rất lớn đã được triển khai. Tỷ lệ khai thác, sử dụng lại thông tin, dữ liệu số hóa trong khối cơ quan nhà nước đến ngày 22/10/2025 đạt 84,23%. Tỉnh đã hoàn thành số hóa 2.752 trên tổng số 47.776 kết quả giải quyết thủ tục hành chính còn hiệu lực của chính quyền cấp huyện trước hợp nhất, đạt 5,8%. Tổng số tài liệu đã số hóa trên địa bàn hai tỉnh trước khi hợp nhất lên tới 9.101.411 trang trên tổng số 67.011.020 trang, bằng 5,52%. Trong đó, tại tỉnh Yên Bái (cũ) đã số hóa 4.831.311 trang, tại tỉnh Lào Cai (cũ) đã số hóa 4.270.100 trang tương ứng 70.550 hồ sơ của 145 đơn vị. Trong khối Đảng, công tác thu thập, chỉnh lý và số hóa cũng đạt khối lượng rất lớn, với hàng trăm mét giá tài liệu các cấp đã được thu thập, lựa chọn để số hóa tập trung và đưa lên phần mềm quản lý kho Lưu trữ lịch sử Đảng của tỉnh. Những con số này không chỉ nói lên nỗ lực kỹ thuật, mà còn thể hiện tầm nhìn coi dữ liệu lịch sử, dữ liệu lưu trữ là một thành phần quan trọng của tài sản số, gắn liền với công tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, giáo dục truyền thống và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên địa bàn.
Một hợp phần không thể thiếu của tiến trình chuyển đổi số là bảo đảm an ninh, an toàn thông tin. Công an tỉnh đã tiếp nhận tổng cộng 346 hồ sơ hệ thống thông tin đã được phê duyệt cấp độ, trong đó có 17 hệ thống cấp độ 3, 151 hệ thống cấp độ 2 và 178 hệ thống cấp độ 1. Qua rà soát 257 hệ thống thông tin, có 145 hệ thống đã được phê duyệt cấp độ, chiếm 56,4%; 27 hệ thống cấp độ 2 phát sinh mới đã được thẩm định, yêu cầu hoàn thiện thuyết minh trước khi phê duyệt; còn 85 hệ thống cấp xã chưa gửi hồ sơ đề xuất cấp độ an toàn. Tỉnh đã và đang vận hành Trung tâm giám sát an toàn thông tin mạng (SOC) giám sát 48 cơ quan, đơn vị, địa phương, trong đó có 17 hệ thống thông tin cấp độ 3; phối hợp với Viettel và BKAV cài đặt 4.175 phần mềm giải pháp chống virus, mã độc tập trung trên máy trạm, kịp thời phát hiện, cảnh báo, khắc phục các lỗ hổng, ngăn chặn hoạt động rà quét, tấn công mạng. Kết quả giám sát cho thấy các hệ thống thông tin trên địa bàn cơ bản được bảo đảm an toàn, chưa phát hiện hoạt động tấn công, gián điệp mạng nhằm vào các cơ quan Đảng, chính quyền, hệ thống tài chính - ngân hàng và hạ tầng thông tin trọng yếu.
Từ toàn bộ bức tranh trên, có thể thấy việc triển khai Nghị quyết 57 ở Lào Cai đang hình thành rõ ba lớp chuyển biến. Lớp thứ nhất là chuyển biến về nhận thức và trách nhiệm chính trị: Nghị quyết không còn là “câu chuyện của riêng ngành khoa học - công nghệ hay thông tin - truyền thông”, mà đã trở thành nhiệm vụ chung của toàn hệ thống, từ khối Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội đến từng xã, phường, từng cơ quan chuyên môn. Lớp thứ hai là chuyển biến về thể chế và thiết kế chính sách: từ Quỹ đầu tư mạo hiểm, khung pháp lý thử nghiệm, cơ chế khoán chi, ưu tiên mua sắm sản phẩm đổi mới sáng tạo đến chính sách “Trải thảm đỏ” thu hút chuyên gia, nhà khoa học, tất cả đang được gấp rút hoàn thiện để tạo “khung khổ mềm” thuận lợi cho đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Lớp thứ ba là chuyển biến về hạ tầng và ứng dụng thực tiễn: từ hạ tầng viễn thông 4G, 5G, các trung tâm dữ liệu, IOC, các nền tảng dịch vụ công trực tuyến, cửa khẩu thông minh đến hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, đào tạo kỹ năng số trong nhà trường, tất cả đang tạo ra một không gian số ngày càng rộng mở, gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội cụ thể của tỉnh.
Tuy nhiên, bức tranh đó cũng cho thấy rõ những khoảng trống cần tiếp tục lấp đầy: các “vùng trắng” về hạ tầng số, điện lưới; tỷ lệ số hóa hồ sơ, tài liệu còn khiêm tốn so với tổng dung lượng; năng lực tự chủ tài chính của các tổ chức khoa học - công nghệ chưa cao; một số nhiệm vụ chậm tiến độ; vẫn còn hàng chục hệ thống thông tin cấp xã chưa xây dựng, phê duyệt cấp độ an toàn. Đây chính là nơi Nghị quyết 57 cần được triển khai ở “phiên bản 2.0”: siết chặt hơn nữa kỷ cương thực thi, đẩy nhanh hơn nữa tiến độ, gắn chặt hơn nữa đánh giá kết quả với trách nhiệm người đứng đầu, đồng thời phát huy mạnh mẽ tinh thần đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.
Trên nền tảng kết quả đã đạt được đến hết quý III năm 2025, tỉnh Lào Cai, trọng tâm là các cấp ủy, chính quyền của tỉnh cần tiếp tục kiên định mục tiêu, quyết liệt trong tổ chức thực hiện, tận dụng tốt các chính sách đang được hoàn thiện, đồng thời xử lý dứt điểm những điểm nghẽn về hạ tầng, thể chế, nguồn lực và nhân lực, để có có đủ cơ sở để biến Nghị quyết 57 thành một động lực mới, bền vững cho phát triển, tạo ra những bước đột phá thực chất về năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần xây dựng một chính quyền số kiến tạo, một xã hội số bao trùm và một hệ sinh thái khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo ngày càng năng động, hiện đại.



