Cổng thông tin điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Ninh Bình
Ninh Bình
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Phiên trù bị Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ I: Tập trung trí tuệ, góp ý sâu sắc hoàn thiện Văn kiện Đại hội

Trong không khí phấn khởi và tràn đầy niềm tin vào Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030, sáng 30/9, tại Phiên trù bị Đại hội, các đại biểu đã tập trung trí tuệ, đóng góp nhiều ý kiến tham luận sâu sắc, tâm huyết, phản ánh sinh động thực tiễn, bám sát chủ đề Đại hội và định hướng phát triển của tỉnh.

Không khí phấn khởi và tràn đầy niềm tin hướng về Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Ảnh: Trường Giang
Không khí phấn khởi và tràn đầy niềm tin hướng về Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Ảnh: Trường Giang

Những tham luận tại phiên họp không chỉ phân tích, đánh giá toàn diện các thành tựu nổi bật trong nhiệm kỳ vừa qua mà còn thẳng thắn chỉ ra những điểm nghẽn, khó khăn, hạn chế. Từ đó, các đại biểu đã kiến nghị, đề xuất các giải pháp cụ thể, thiết thực và có tính khả thi cao, nhằm tạo đà thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh trong giai đoạn 2025-2030, qua đó đóng góp thiết thực, làm rõ những nội dung trọng tâm và góp phần hoàn thiện chất lượng văn kiện, quyết sách quan trọng của Đại hội…

Báo Ninh Bình điện tử trích đăng một số tham luận trình bày tại Phiên trù bị Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.

ĐỔI MỚI, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO VÀ DÂN VẬN TRONG TÌNH HÌNH MỚI

(Tham luận của đồng chí Nguyễn Đức Toàn, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy)

Đồng chí Nguyễn Đức Toàn, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy.

... Hội nghị lần thứ 12 của BCH Trung ương Đảng khóa XIII đã quyết định tích hợp nội dung 3 văn kiện gồm Báo cáo chính trị, Báo cáo Kinh tế - Xã hội và báo cáo về Tổng kết Xây dựng Đảng và Thi hành Điều lệ Đảng (Nội dung công tác xây dựng Đảng) thành Báo cáo chính trị theo một trục xuyên suốt, thống nhất, đồng bộ để trình Đại hội XIV của Đảng. Đây là một sự đổi mới, đột phá về tư duy, thể hiện được cách làm sáng tạo, tránh được sự trùng lặp, thiếu thống nhất giữa các báo cáo của trung ương. Nghiên cứu Dự thảo Báo cáo chính trị, tôi đồng tình, nhất trí cao và nhận thấy, Dự thảo ngắn gọn, có tính khái quát cao, rõ quan điểm, chủ trương, các định hướng, các nhiệm vụ trọng tâm, các đột phá chiến lược. Báo cáo đã phản ánh đúng thực tiễn phát triển của đất nước, xác định rõ các mục tiêu của nhiệm kỳ Đại hội XIV, tầm nhìn đến năm 2045 và xa hơn nữa, gắn với 2 mục tiêu: 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

Đối với công tác xây dựng Đảng, chúng tôi đồng tình với đánh giá trong dự thảo là: “Xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị đạt được nhiều kết quả quan trọng, có mặt nổi bật, đột phá chưa từng có”. Kết quả cụ thể trên các lĩnh vực như xây dựng đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức và công tác tổ chức, cán bộ, công tác dân vận, công tác kiểm tra, giám sát, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng được nêu trong báo cáo rất đầy đủ, sâu sắc. Đặc biệt, cuộc cách mạng về sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả đã đạt được những kết quả mang tính đột phá, nhận được sự quan tâm, đồng tình ủng hộ của cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân.

Để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước trong giai đoạn mới, dự thảo Báo cáo chính trị đã xác định nhiệm vụ: Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng chỉnh đốn đảng trong sạch vững mạnh toàn diện, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, trong đó xác định đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng, nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, thuyết phục trong tuyên truyền giáo dục chính trị tư tưởng; đồng thời đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền vận động nhân dân, thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới, công tác Tuyên giáo và Dân vận đang đứng trước yêu cầu cấp bách cần đổi mới cả về tư duy chiến lược, mô hình tổ chức và phương thức hoạt động. Những biến đổi sâu sắc về kinh tế, xã hội, công nghệ, sự bùng nổ của truyền thông số và không gian mạng, các nguy cơ diễn biến hòa bình, thông tin sai lệch, kích động chia rẽ… đang đặt ra những thách thức mới, phức tạp, đòi hỏi sự thích ứng, linh hoạt của hệ thống tuyên giáo và dân vận.

Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ trên, tôi đề nghị Trung ương cần nghiên cứu bổ sung vào Chương trình hành động của nhiệm kỳ 2025-2030 một Đề án hoặc Chương trình tổng thể, dài hạn cho công tác Tuyên giáo và Dân vận qua đó thể hiện tính chủ động trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với Nhân dân, nâng cao hiệu quả tuyên truyền, vận động, định hướng dư luận xã hội, góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, tạo sự đồng thuận xã hội, giữ vững ổn định chính trị và khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Tôi hoàn toàn nhất trí với các văn kiện của BCH Đảng bộ tỉnh báo cáo với Đại hội. Báo cáo chính trị đã đánh giá khách quan, đầy đủ và sâu sắc trên các lĩnh vực công tác, trong đó khẳng định công tác Tuyên giáo và Dân vận của Đảng đã có đóng góp quan trọng vào thực hiện thắng lợi các mục tiêu nghị quyết đề ra. Báo cáo cũng đã xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, phương châm hành động, các khâu đột phá, các giải pháp chủ yếu để phấn đấu đến năm 2030 Ninh Bình trở thành thành phố trực thuộc trung ương - mục tiêu có tính chiến đấu cao nhưng cũng đầy thách thức. Một trong những giải pháp chủ yếu để hiện thực hóa mục tiêu đó là tăng cường công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, trước hết là xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và đạo đức, kết hợp chặt chẽ giữa công tác tư tưởng với công tác dân vận.

Tuyên giáo và Dân vận là những lĩnh vực cấu thành công tác tư tưởng của Đảng với mục đích là tuyên truyền vận động các tầng lớp Nhân dân chung sức đồng lòng thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong bối cảnh kỷ nguyên mới, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, nhất là công nghệ số, cùng xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, công tác Tuyên giáo và Dân vận đứng trước yêu cầu nhiệm vụ mới vừa nặng nề, vừa cấp bách. Thực tiễn của đất nước đã và đang đặt ra yêu cầu phải tiếp tục củng cố niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững ổn định chính trị xã hội, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng và kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Do đó công tác Tuyên giáo và Dân vận phải đổi mới mạnh mẽ toàn diện cả về tư duy, nội dung cũng như phương thức thực hiện để hướng đến tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, phát triển đất nước.

Mặt khác, sau sáp nhập, tỉnh Ninh Bình có quy mô dân số đông, tiềm năng phong phú, đa dạng, giàu truyền thống lịch sử - văn hóa; việc triển khai thực hiện chính quyền địa phương hai cấp đặt ra yêu cầu cao hơn, hiệu quả hơn trong triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Do đó, công tác Tuyên giáo và Dân vận của tỉnh phải đổi mới mạnh mẽ, toàn diện để nâng cao chất lượng, hiệu quả trong tình hình mới. Để đáp ứng yêu cầu đó, tôi xin đề xuất một số nhiệm vụ trọng tâm sau:

Một là, nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền các cấp về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác Tuyên giáo và Dân vận. Xác định rõ công tác Tuyên giáo và Dân vận là trách nhiệm của hệ thống chính trị, trước hết là của cấp ủy và người đứng đầu. Mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu gương, gắn bó mật thiết với Nhân dân, thường xuyên đối thoại, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng để kịp thời giải đáp, tháo gỡ khó khăn, củng cố niềm tin và sự đồng thuận xã hội. Đồng thời, nhận thức được những nội dung mới trong tư duy lý luận về công tác Tuyên giáo và Dân vận của Đảng. Đó là sự thống nhất biện chứng giữa Tuyên giáo và Dân vận, giữa tuyên truyền và vận động, giữa định hướng tư tưởng và dẫn dắt hành động, theo đó, công tác tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng phải gắn liền với công tác vận động tổ chức thực hiện. Mặt khác, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng cùng sự phát triển mạnh mẽ của các nền tảng công nghệ số, truyền thông số đã biến không gian mạng thành một mặt trận mới của công tác tư tưởng và công tác vận động quần chúng. Đây là mặt trận không có biên giới rõ ràng, nơi sức mạnh không nhất thiết phụ thuộc vào quy mô kinh tế hay quân sự. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo mở ra nhiều cơ hội, đồng thời đặt ra những thách thức to lớn cho công tác Tuyên giáo và Dân vận, đòi hỏi một cách tiếp cận, cách triển khai mới để tạo ra sức sống mới, hiệu năng, hiệu quả. Trong kỷ nguyên mới, không gian mạng có thể là mặt trận quan trọng nhất, quyết định tới chất lượng, hiệu quả công tác Tuyên giáo và Dân vận.

Hai là, để sớm hiện thực hóa mục tiêu đề ra, cùng với báo cáo chính trị, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh cũng đã dự thảo chương trình hành động với những kế hoạch, chương trình, đề án cụ thể, rõ cơ quan tham mưu, cơ quan tổ chức thực hiện, thời gian hoàn thành và nguồn lực đảm bảo. Tôi đề nghị trước khi tổ chức triển khai, các cơ quan đơn vị chủ trì cần rà soát nhằm đảm bảo tất cả những chủ trương đó đều xuất phát từ yêu cầu phát triển của tỉnh và đất nước, nhưng cũng chính là xuất phát từ mong muốn, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân. Quá trình thực hiện cần thông tin kịp thời, đầy đủ, kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền với vận động để tạo sự đồng tình, ủng hộ của Nhân dân, đặc biệt là những chương trình, dự án có liên quan đến thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, tái định cư, những chương trình liên quan đến an sinh và cuộc sống thiết thực của người dân.

Ba là: Coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ Tuyên giáo và Dân vận ở cơ sở. Đây là lực lượng có nhiệm vụ nghiên cứu chuyên sâu những chủ trương, chính sách, trực tiếp đề xuất triển khai, quán triệt, cụ thể hóa những chủ trương, chính sách đó phù hợp thực tiễn của địa phương. Đồng thời, cũng là lực lượng trực tiếp tuyên truyền, vận động, theo dõi chặt chẽ, gắn bó mật thiết với Nhân dân, nắm rõ những tư tưởng, tình cảm, tâm tư của quần chúng nhân dân cũng như các vấn đề nổi cộm, dư luận quan tâm. Đây cũng là lực lượng trên tuyến đầu đấu tranh với những nhận thức, tư tưởng sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Sau khi sáp nhập đơn vị hành chính, địa bàn xã, phường rộng hơn, khối lượng công việc nhiều, tổ chức bộ máy đã được tinh gọn, trong khi yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao, vì vậy, đội ngũ cán bộ Tuyên giáo và Dân vận cần được đặc biệt quan tâm, từ lựa chọn, bố trí, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, từng bước hình thành đội ngũ cán bộ Tuyên giáo, Dân vận ở cơ sở có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, thành thạo chuyên môn nghiệp vụ, am hiểu công nghệ số, có kỹ năng thuyết phục, vận động quần chúng. Mỗi cán bộ phải thực sự là “chiến sĩ tiên phong” trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, gần dân, sát dân, là cầu nối tin cậy giữa Đảng với Nhân dân.

Công tác Tuyên giáo và Dân vận không chỉ “đi trước - mở đường, đi cùng - thực hiện, đi sau - tổng kết” mà còn phải trở thành lực lượng xung kích, sáng tạo, từng bước đưa hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình Việt Nam và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới được thấm sâu, lan tỏa trong đời sống xã hội. Thực hiện tốt công tác Tuyên giáo và Dân vận chính là góp phần phát huy sức mạnh của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong tỉnh đồng thuận, đồng lòng thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.

 

NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

(Tham luận của đồng chí Nguyễn Anh Tuấn, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy)

Đồng chí Nguyễn Anh Tuấn, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy.

... Điều lệ Đảng đã khẳng định kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng; một trong những nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của tổ chức đảng là phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát, đồng thời tổ chức đảng và đảng viên phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng. Thực hiện Điều lệ Đảng, tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X) về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng và các quy định, kết luận, hướng dẫn của Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát. Trong nhiệm kỳ qua, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ tỉnh đã được tăng cường, đi sâu đổi mới cả về nội dung và phương pháp, mang lại hiệu quả rõ rệt trong siết chặt kỷ cương, nâng cao năng lực lãnh đạo, thúc đẩy liêm chính trong hoạt động công vụ. UBKT các cấp trong tỉnh đã tích cực tham mưu giúp cấp ủy các cấp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo việc quán triệt, thực hiện Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, quy chế, quy định, hướng dẫn của Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; ban hành các văn bản để lãnh đạo, chỉ đạo về công tác kiểm tra, giám sát; xây dựng, thực hiện chương trình kiểm tra, giám sát nhiệm kỳ và hằng năm đảm bảo trọng tâm, trọng điểm, thiết thực. Tham mưu chuẩn bị tốt nội dung làm việc với các đoàn kiểm tra của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, trong đó có nhiều nhiệm vụ đột xuất lớn (Trong nhiệm kỳ đã làm việc với 9 Đoàn kiểm tra của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương (trong đó: Hà Nam 4 đoàn, Nam Định 2 đoàn, Ninh Bình 3 đoàn). Tính chủ động thể hiện rõ trong Chương trình kiểm tra, giám sát của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy ba tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình với khối lượng tăng, tốc độ khẩn trương, phương pháp được đổi mới (nhiệm kỳ 2020 - 2025, Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy 3 tỉnh: Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình đã thực hiện 135 cuộc kiểm tra, giám sát (trong đó: Hà Nam 29 cuộc, Nam Định 73 cuộc, Ninh Bình 33 cuộc); Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy 3 tỉnh đã thực hiện 132 cuộc kiểm tra, giám sát (trong đó: Hà Nam 24 cuộc, Nam Định 58 cuộc, Ninh Bình 50 cuộc).

Trong nhiệm kỳ 2020 - 2025, đã mở rộng đối tượng, phạm vi kiểm tra, giám sát; tăng cường kiểm tra dấu hiệu vi phạm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; coi trọng giám sát thường xuyên, chuyên đề; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác kiểm tra, giám sát; đi sâu kiểm tra, giám sát về kê khai tài sản và thu nhập của đảng viên, thực hiện công khai kết quả kiểm tra, giám sát.

Xem xét thi hành kỷ luật bảo đảm nguyên tắc, thủ tục, thẩm quyền theo quy định (nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã thi hành kỷ luật 54 tổ chức đảng, 4.074 đảng viên (trong đó: Nam Định: 13 tổ chức đảng, 709 đảng viên; Hà Nam: 29 tổ chức đảng, 2.161 đảng viên; Ninh Bình: 12 tổ chức đảng, 1.204 đảng viên). Giải quyết khiếu nại, tố cáo được nhiều cấp ủy trong Đảng bộ 3 tỉnh quan tâm chỉ đạo, nhiều vụ việc tồn đọng kéo dài được xử lý dứt điểm. Thực hiện nghiêm kiểm soát quyền lực trong công tác kiểm tra, giám sát, phối hợp nhịp nhàng hơn với các cơ quan thanh tra, kiểm toán, tòa án, kiểm sát, điều tra. Thông qua công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng đã kịp thời cảnh báo, phòng ngừa, răn đe, chấn chỉnh, uốn nắn, khắc phục, ngăn chặn tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, nâng cao trách nhiệm tổ chức và cá nhân, nhất là người đứng đầu cấp ủy trong thực hiện nhiệm vụ được giao.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng, ủy ban kiểm tra các cấp đã thực hiện tốt Quy chế phối hợp, tham mưu giúp cấp ủy cùng cấp chỉ đạo xem xét, giải quyết kịp thời những vấn đề nổi cộm”, “bức xúc, tố cáo, khiếu kiện đông người, những vấn đề dư luận cán bộ, đảng viên và Nhân dân quan tâm, góp phần giữ vững ổn định tình hình chính trị - xã hội trên địa bàn; tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút đầu tư, triển khai thực hiện các chương trình, đề án trọng tâm của tỉnh, phát triển kinh tế - xã hội; góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, phục vụ tốt cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 2021 - 2026 và Đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Trong bối cảnh nhiều khó khăn, toàn Đảng bộ tỉnh đã cơ bản hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ đề ra; giữ vững địa bàn an toàn, kiểm soát dịch bệnh COVID-19 hiệu quả, nhanh chóng phục hồi và tăng tốc phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết có hiệu quả nhiều tồn đọng kéo dài; tạo nền tảng vững chắc cùng cả nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được đặt đúng vị trí “then chốt”, tiến hành đồng bộ, đạt được kết quả khá toàn diện, nhiều mặt nổi bật. Có đột phá lớn về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, hợp nhất đơn vị hành chính, xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp.

Từ thực tế thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của Đảng bộ tỉnh trong nhiệm kỳ qua, các yêu cầu, nhiệm vụ chiến lược, xuyên suốt trong thời gian tới, như: 1) Thực hiện đồng bộ các biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của cấp uỷ đảng và uỷ ban kiểm tra các cấp, trong đó coi trọng nâng cao hiệu quả kiểm tra, giám sát ngay từ chi bộ. 2) Đổi mới mạnh mẽ tư duy, phương pháp, cách thức tổ chức công tác kiểm tra, giám sát, chuyển trọng tâm sang phòng ngừa, cảnh báo vi phạm; kiểm tra, giám sát không chỉ để phát hiện, xử lý sai phạm mà trước hết là để giữ gìn kỷ cương, ngăn ngừa, giữ cho tổ chức đảng và đảng viên không đi chệch hướng, góp phần để các chủ trương, chính sách của Đảng được tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra thực sự bản lĩnh, liêm chính, chuyên nghiệp, có trình độ và năng lực ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới; đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số toàn diện trong hệ thống chính trị, từng bước chuyển công tác kiểm tra, giám sát từ cách làm truyền thống sang "giám sát trên dữ liệu, kiểm tra trên dữ liệu", trước mắt là công tác kiểm tra, giám sát việc công khai, kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ diện cấp uỷ quản lý...

Để đáp ứng được yêu cầu công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong tình hình mới; để nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng bộ tỉnh, tôi xin đề xuất một số nhiệm vụ, giải pháp thực hiện:

Một là: Quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030; tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt Kết luận số 34-KL/TW, ngày 18 tháng 4 năm 2022 của Bộ Chính trị về Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2030 và các nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định, quy chế, hướng dẫn của Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, nâng cao nhận thức của cấp ủy, các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng.

Hai là: Cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp trong tỉnh tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát của cấp ủy, nhất là đối với chi bộ; kiểm tra, giám sát có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với tình hình thực tế, đảm bảo thực hiện toàn diện, hiệu quả các nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng và nhiệm vụ cấp trên giao.

Đổi mới mạnh mẽ tư duy, phương pháp, cách thức tổ chức công tác kiểm tra, giám sát; chuyển trọng tâm sang công tác phòng ngừa, cảnh báo vi phạm. Kiểm tra, giám sát không chỉ để phát hiện, xử lý sai phạm mà trước hết là cảnh báo, ngăn ngừa vi phạm và để các chủ trương, chính sách của Đảng được tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả.

Chuyển từ thụ động sang chủ động nắm chắc tình hình, không để có “khoảng trống”, “vùng tối” mà công tác kiểm tra, giám sát của Đảng không vươn tới được; gắn công tác kiểm tra, giám sát với kiểm soát quyền lực; đổi mới công tác giám sát thường xuyên, xây dựng cơ chế giám sát hiệu quả, có khả năng cảnh báo sớm và phòng ngừa vi phạm ngay từ cơ sở, không để các vi phạm nhỏ tích tụ thành vi phạm nghiêm trọng, hình thành và lan tỏa văn hóa chính trị trách nhiệm trong nội bộ Đảng. Kịp thời nắm tình hình, kiểm tra, giám sát, kiến nghị giải quyết những vấn đề “nóng”, dư luận xã hội quan tâm.

Ba là: Xây dựng cơ quan ủy ban kiểm tra các cấp trong tỉnh mạnh, toàn diện, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra thực sự bản lĩnh, liêm chính, chuyên nghiệp, có trình độ và năng lực ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới. Tiếp tục thực hiện luân chuyển cán bộ trong ngành Kiểm tra Đảng, cán bộ lãnh đạo các ngành, các cấp về làm công tác kiểm tra và cán bộ kiểm tra sang công tác ở các ngành khác để đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ.

Đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số toàn diện trong công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng, từng bước chuyển công tác kiểm tra, giám sát từ cách làm truyền thống sang “giám sát trên dữ liệu, kiểm tra trên dữ liệu”.

Bốn là: Ủy ban kiểm tra các cấp triển khai thực hiện toàn diện, hiệu quả các nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định. Tăng cường giám sát thường xuyên, chuyển trọng tâm sang công tác phòng ngừa, cảnh báo vi phạm. Thực hiện tốt nhiệm vụ trọng tâm là kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới, đảng viên (kể cả cấp ủy viên cùng cấp) khi có dấu hiệu vi phạm; giải quyết kịp thời đơn thư khiếu nại, tố cáo tổ chức đảng, đảng viên. Thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm soát tài sản, thu nhập. Xử lý và tham mưu giúp cấp ủy xử lý kịp thời, nghiêm minh tổ chức đảng, đảng viên có vi phạm.

Năm là: Tiếp tục thực hiện tốt công tác phối hợp giữa UBKT các cấp với các tổ chức đảng, các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

 

TẬP TRUNG QUY HOẠCH, PHÁT TRIỂN HẠ TẦNG CHIẾN LƯỢC, TẠO NỀN TẢNG ĐƯA NINH BÌNH TRỞ THÀNH THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG

(Tham luận của đồng chí Nguyễn Văn Lượng, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Giám đốc Sở Xây dựng)

Đồng chí Nguyễn Văn Lượng, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Giám đốc Sở Xây dựng.

...Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ I nhiệm kỳ 2025-2030 diễn ra trong một bối cảnh lịch sử trọng đại, khi cả nước tiến hành cuộc cách mạng về bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực và hiệu quả, hiện thực hoá quyết sách từ Nghị quyết số 18 của Hội nghị Trung ương 6 Khóa XII, thể hiện tầm nhìn vĩ mô và chiến lược của Đảng và Nhà nước ta nhằm tái cấu trúc không gian, giải phóng mọi nguồn lực để phát triển trong kỷ nguyên mới.

Trên cơ sở sáp nhập 3 tỉnh cũ Hà Nam - Nam Định - Ninh Bình; tỉnh Ninh Bình mới trở thành một tỉnh rộng lớn, giàu tiềm năng, thế mạnh hơn. Việc sáp nhập, tinh gọn bộ máy và thực hiện chính quyền địa phương hai cấp, không chỉ là một sự kiện hành chính - chính trị khác thường mà còn là vận hội lịch sử có tính chất bước ngoặt đối với tỉnh; là một cơ hội rất lớn, song khó khăn, thách thức cũng không nhỏ.

Về mặt cơ hội, sự hợp nhất này sẽ hội tụ và lan tỏa những tiềm năng, lợi thế độc đáo của tỉnh, đó là:

- Xét về vị trí chiến lược: Ninh Bình mới là yết hầu, cửa ngõ phía Nam Thủ đô Hà Nội, là đầu mối kết nối các phương thức giao thông quốc gia và quốc tế. Đây là lợi thế vô cùng quan trọng để trở thành trung tâm logistics và công nghiệp của vùng.

Với diện mạo mới, tỉnh Ninh Bình có 129 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 32 phường và 97 xã. Dân số đô thị, tính theo các phường đạt 1,36 triệu người trên tổng số 4,4 triệu dân toàn tỉnh. Tỷ lệ đô thị hóa đạt 30,74%. Sự hợp nhất này tạo ra một cấu trúc đô thị đa trung tâm với 03 “đầu tầu” phát triển là các đô thị trung tâm cũ: TP. Nam Định (Đông), TP. Phủ Lý (Bắc) và TP. Ninh Bình (Nam); với định hướng hình thành vùng phát triển đô thị tam giác trong không gian tỉnh mới, trong đó, điểm nhấn, đóng vai trò trung tâm kết nối - lan toả của tỉnh sẽ là Cố đô Hoa Lư - đô thị di sản thiên niên kỷ, bấy lâu đã được quốc tế công nhận và vinh danh.

Cùng với đó, tiềm năng và lợi thế cảnh quan tự nhiên đa dạng và tươi đẹp cũng là một động lực để nâng cao chất lượng quy hoạch - xây dựng, nhất là quy hoạch - xây dựng các không gian sinh thái bền vững phục vụ phát triển du lịch và nâng cao chất lượng sống, không chỉ cho cư dân Ninh Bình mà còn thu hút đông đảo du khách muôn nơi đến tận hưởng.

- Xét về yếu tố bản sắc văn hóa: Ninh Bình là "vùng đất lưỡng diện" - một mặt là vùng đất gắn với sự phát triển phồn thịnh của Triều đại Lý, Trần (Hoa Lư, Thiên Trường...) trầm tích nhiều di sản văn hóa, lịch sử mang đậm văn hóa đặc trưng của vùng đất Sơn Nam, của văn hóa châu thổ đồng bằng Sông Hồng. Đặc biệt, với vị thế Cố đô - đô thị của nhà nước Đại Việt, hình thành nên không gian văn hoá Tràng An (Ninh Bình), được tiếp biến, hiện diện bền vững trong văn hóa Đông Đô - Thăng Long (Hà Nội) là một điểm nhấn văn hoá có một không hai. Mặt khác, đó là một đô thị hiện đại, năng động, hội nhập, khát khao vươn dậy để phát triển.

- Xét phương diện nguồn lực: Sự kết hợp giữa Nam Định với truyền thống công nghiệp dệt may và vùng thâm canh năng suất cao và kinh tế biển; Hà Nam với lợi thế công nghiệp - đô thị; Ninh Bình với tiềm năng du lịch, nông nghiệp sinh thái, công nghiệp mũi nhọn; tạo ra một nền tảng kinh tế đa dạng và bền vững.

Với nhiệm vụ được dự thảo văn kiện xác định là đưa tỉnh Ninh Bình mới trở thành đô thị - thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2030, sớm hơn 5 năm so với định hướng ban đầu; ngành Xây dựng lãnh nhận nhiệm vụ tiên phong trong việc kiến tạo không gian sống, hình thành hệ thống đô thị văn minh, hiện đại, và xây dựng nền tảng hạ tầng chiến lược, tạo động lực cho sự phát triển của toàn tỉnh.

Về khó khăn, thách thức, tại Đại hội này, ngành Xây dựng mạnh dạn thẳng thắn đánh giá thực trạng và những thách thức đang đối mặt, nhất là khi đối chiếu với các tiêu chí của thành phố trực thuộc Trung ương, cụ thể:

- Yếu tố dân số và mức độ đô thị hóa: Tỷ lệ đô thị hóa của tỉnh hiện chỉ đạt 30,74%, một khoảng cách lớn so với mục tiêu 60,1% được nêu trong Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội (tuy nhiên theo dự thảo Nghị quyết phân loại đô thị chỉ yêu cầu 45%). Khoảng cách gần 30 điểm phần trăm này không thể được lấp đầy chỉ bằng tốc độ đô thị hóa tự nhiên mà đòi hỏi một sự thay đổi trạng thái mang tính đột phá kết hợp với các giải pháp chính sách mạnh mẽ về phát triển công nghiệp - thương mại - dịch vụ để thúc đẩy chuyển đổi xã thành phường, thu hút dân cư và lao động phi nông nghiệp dịch chuyển vào sống trong các đô thị.

- Hạ tầng và chất lượng đô thị: Hệ thống hạ tầng, mặc dù được quan tâm đầu tư, vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt là hạ tầng kỹ thuật khung (giao thông kết nối liên vùng, xử lý nước thải, rác thải), hạ tầng dữ liệu phục vụ chuyển đổi số, phát triển đô thị thông minh. Sự phát triển thiếu đồng bộ này đang cản trở việc đáp ứng các tiêu chí của đô thị văn minh, hiện đại và gây ra áp lực lớn lên tài nguyên và môi trường.

- Về cơ chế và quản lý: Thể chế, chính sách về đô thị còn thiếu đồng bộ, có sự phân tán và chồng chéo trong quản lý giữa các cơ quan nhà nước. Việc chuyển sang mô hình chính quyền địa phương hai cấp cũng tạo ra một khoảng trống pháp lý và những thách thức trong việc phân loại, quản lý đô thị. Thiếu cơ chế đặc thù cũng là rào cản lớn trong việc chuẩn bị nguồn lực để thực hiện nhiệm vụ đưa Ninh Bình trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trong thời gian ngắn hạn.

Từ hiện trạng phát triển trước khi sáp nhập và những hạn chế, thách thức nêu trên, ngành Xây dựng nhận thức rằng, để hiện thực hóa mục tiêu trở thành thành phố trực thuộc Trung ương bằng con đường bền vững, cần chuyển đổi tư duy phát triển từ chỗ dựa vào khai thác tài nguyên thô sang phát triển công nghiệp mũi nhọn kết hợp thúc đẩy dịch vụ du lịch - văn hóa, giải trí và sáng tạo. Quán triệt sâu sắc Báo cáo Chính trị Đại hội, quan điểm phát triển đô thị của tỉnh được xác lập trên các nền tảng cốt lõi lấy con người làm trung tâm; vì thế, quy hoạch đô thị phải có cách tiếp cận bao trùm, giải quyết hài hòa các vấn đề liên ngành, liên vùng, gìn giữ được các giá trị truyền thống, lịch sử.

Về mục tiêu trong Dự thảo Báo cáo Chính trị: Ngành Xây dựng xin góp ý và đề nghị điều chỉnh “Tỷ lệ đô thị hóa đạt 60,1%” thành “Tỷ lệ đô thị hóa đạt ≥ 45%” cho phù hợp với chỉ tiêu tối thiểu (45%) được Quốc hội đang xem xét quy định cho tiêu chí đô thị trực thuộc Trung ương và phù hợp tình hình thực tiễn đô thị hóa hiện tại (30,74%).

Để vượt qua những thách thức nêu trên và hiện thực hóa mục tiêu trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2030; bám sát các nội dung trong dự thảo Nghị quyết Đại hội và các văn bản liên quan, ngành Xây dựng đề xuất cần có một số giải pháp mang tính đột phá như sau:

Một là, đột phá về quy hoạch: “Tái cấu trúc không gian, hình thành các đô thị chuyên ngành”

Hệ thống đô thị Ninh Bình mới được hợp nhất từ ba tỉnh cũ, trên cơ sở những quy hoạch riêng đã có trước đây, cần phải kế thừa và đặt lại trong tổng thể quy hoạch chung hiện nay để có thể mang lại một cấu trúc phát triển hoàn toàn mới, tạo ra một cực tăng trưởng mới, đột phá cho khu vực phía Nam đồng bằng Sông Hồng. Do vậy, nhiệm vụ cốt lõi đầu tiên là hoàn thành việc rà soát, lập điều chỉnh Quy hoạch tỉnh, lập Quy hoạch chung đô thị Ninh Bình đến năm 2050, tầm nhìn đến năm 2075 và phải thực hiện xong trong năm 2026 với lộ trình cụ thể để hiện thực hóa mục tiêu năm 2030 đạt các tiêu chí là thành phố trực thuộc Trung ương. Một quy hoạch tổng thể, tích hợp sẽ giải quyết được vấn đề thiếu tính đồng bộ giữa công nghiệp hóa, đô thị hóa và du lịch hóa.

Hai là, đột phá về phát triển hạ tầng: “Đa dạng hóa nguồn lực, ưu tiên hạ tầng chiến lược”

Hạ tầng được xác định là huyết mạch, là điều kiện tiên quyết để đạt được các mục tiêu phát triển. Tỉnh sẽ huy động và tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng chiến lược, đồng bộ và thông minh, kết nối nội vùng và liên vùng. Việc ưu tiên hoàn thiện các tuyến giao thông liên kết vùng như Vành đai 5, cao tốc Phủ Lý - Nam Định, đường chiến lược Nam Định - Hoa Lư sẽ giải quyết vấn đề thiếu liên kết nội tỉnh và thiếu kết nối với các trục kinh tế lớn.

Đặc biệt, là hoàn thiện quy hoạch và thúc đẩy xúc tiến đầu tư các công trình mang tầm quốc gia như sân bay và cảng biển nước sâu tại Khu kinh tế Ninh Cơ sẽ biến Ninh Bình từ một "vệ tinh" đơn thuần trở thành một "cực tăng trưởng" độc lập và có vị thế quốc tế, khắc phục hạn chế về thiếu đô thị cấp vùng. Hạ tầng giao thông mới sẽ mở ra những không gian, hành lang phát triển mới, thu hút các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn và hình thành các khu đô thị vệ tinh dọc theo các tuyến đường.

Ba là, đột phá về quản lý và thể chế:

Những quy định hiện hành không đủ để giải quyết những vấn đề đặc thù của một đô thị di sản và tạo ra đột phá. Do đó, việc xây dựng một cơ chế, chính sách vượt trội là hết sức cần thiết; giúp giải quyết hàng loạt điểm nghẽn về tài chính và thu hút đầu tư:

- Về tài chính: Cho phép giữ lại tỷ lệ cao hơn nguồn thu từ du lịch, công nghiệp và từ sử dụng đất để tái đầu tư. Áp dụng chính sách thuế ưu đãi cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực văn hóa - sáng tạo.

- Về thu hút đầu tư: Ưu tiên và tập trung thu hút các tập đoàn công nghiệp sản xuất có công nghệ lõi công nghệ sạch đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh; tăng nguồn thu bền vững từ sử dụng đất cho dịch vụ, du lịch, công nghiệp sản xuất và công nghiệp giải trí, văn hóa. Mở rộng các cơ chế thu hút, hợp tác công - tư (PPP) trong đầu tư các dự án cơ sở hạ tầng chiến lược, phát triển đô thị thông minh, đô thị xanh và các lĩnh vực về du lịch, văn hóa.

Thực hiện đồng bộ các giải pháp đột phá về quy hoạch, hạ tầng, thể chế và phát triển đô thị di sản là lời giải cho bài toán phát triển bền vững, hiện đại, giàu bản sắc, truyền thống.

Để hiện thực hóa các mục tiêu và áp dụng các giải pháp nói trên, thay mặt ngành Xây dựng, tôi xin kiến nghị Đại hội một số nhiệm vụ cấp thiết cần làm ngay như sau:

1. Ưu tiên ban hành một Nghị quyết chuyên đề về phát triển đô thị, trong đó xác định rõ lộ trình và các mục tiêu cụ thể để đưa Ninh Bình đạt các tiêu chí của thành phố trực thuộc Trung ương, đồng thời xây dựng Đề án để trình Chính phủ, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết riêng về “Xây dựng và phát triển thành phố Ninh Bình - đô thị di sản thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo” với mục tiêu phát triển đô thị Ninh Bình vị trí và vai trò được khẳng định trong khu vực và quốc tế; trong đó được áp dụng chỉ tiêu cho đô thị đặc thù có di sản được UNESCO công nhận.

2. Xây dựng một cơ chế đặc thù, mang tính đột phá để thu hút các nhà đầu tư chiến lược, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao, du lịch, kinh tế biển và hạ tầng giao thông chiến lược, đô thị.

3. Thành lập Ban Chỉ đạo phát triển đô thị cấp tỉnh, với sự tham gia của các sở, ngành liên quan, nhằm chỉ đạo, điều phối và giám sát việc thực hiện các mục tiêu phát triển đô thị của tỉnh.

4. Tập trung chỉ đạo tổ chức rà soát, điều chỉnh quy hoạch tỉnh Ninh Bình xong trong năm 2025; Quy hoạch chung đô thị Ninh Bình và các quy hoạch chuyên ngành hạ tầng giao thông, hạ tầng số, hạ tầng môi trường xong trong năm 2026 với yêu cầu các quy hoạch phải đảm bảo tính đồng bộ và khả thi.

5. Triển khai đầu tư ngay các dự án hạ tầng chiến lược có tính chất lan tỏa, tạo động lực phát triển kết nối các trung tâm đô thị Hoa Lư - Phủ Lý - Nam Định, các trung tâm dịch vụ, công nghiệp, đô thị và công trình hạ tầng chiến lược; từng bước đầu tư công trình đầu mối hạ tầng cấp vùng, cấp Quốc gia (Cảng hàng không và cảng biển, các tuyến cao tốc, đường sắt kết nối với thủ đô Hà Nội).

6. Triển khai đầu tư ngay cho nâng cấp cơ sở hạ tầng khung đô thị, hạ tầng khung về xã hội (du lịch, hạ tầng y tế - giáo dục - văn hóa) theo các tiêu chí đô thị thành phố trực thuộc Trung ương.

Bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc, Xây dựng phải là ngành đi tiên phong trong phát triển, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển, ngành Xây dựng tỉnh Ninh Bình sẽ tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, kỷ cương, đột phá, phát triển, bám sát các mục tiêu và nhiệm vụ mà Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ I đề ra, góp phần cùng toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xây dựng tỉnh Ninh Bình trở thành thành phố trực thuộc Trung ương giàu mạnh, văn minh, hiện đại, có bản sắc riêng, và là một nơi đáng sống cho mọi người dân.

Với vai trò tiên phong tạo cơ sở hạ tầng nền tảng, ngành Xây dựng ý thức sâu sắc rằng việc quy hoạch và phát triển hạ tầng chiến lược không chỉ là công việc chuyên môn của ngành mà còn là sự cộng hưởng toàn hệ thống chính trị. Ngành xây dựng có cơ sở để tin tưởng rằng, với sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, sự đồng lòng của cả hệ thống chính trị và Nhân dân trong tỉnh, ngành Xây dựng khẳng định sẽ vượt qua những thách thức, hoàn thành các nhiệm vụ trọng tâm đề ra trong nhiệm kỳ 2025-2030.


Nhóm PV / baoninhbinh.org.vn

Các tin khác

Tin đọc nhiều