(TUAG)- Là một lĩnh vực quan
trọng trên mặt trận tư tưởng - lý luận của Đảng, nên văn học, nghệ thuật (VHNT)
cũng là lĩnh vực tập trung chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch trong
chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Chúng xác định đây là “mũi đột phá”, “thọc sâu”,
nhằm làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng. Vì thế, bên cạnh
việc tăng cường đấu tranh phản bác các quan điểm, sai trái thù địch trên lĩnh vực
VHNT thì việc định hướng xây dựng, phát triển VHNT cũng là vấn đề đặc biệt
quan trọng và cấp thiết hiện nay.
Sinh thời, Chủ tịch
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến VHNT, coi đây là “mặt trận” quan trọng của cách mạng
Việt Nam. Từ sự cảm
nhận sâu sắc về trách nhiệm của VHNT trước cuộc sống, Người nhận định: “Nhiệm vụ của
văn hóa chẳng những để cổ động tinh thần và lực lượng kháng chiến kiến quốc của
quốc dân, mà cũng phải nêu rõ những thành tích kháng chiến kiến quốc vĩ đại của
ta cho thế giới” và
xác định vai trò “văn hóa
nghệ thuật cũng là một mặt trận”. Như vậy, VHNT có khả năng tạo nên nguồn
năng lượng tinh thần vô cùng to lớn giúp toàn thể Nhân dân, đất nước vượt qua mọi
khó khăn, thử thách khắc nghiệt để giành thắng lợi trong công cuộc kháng chiến,
kiến quốc, đồng thời còn là minh chứng cho tài năng và nhân cách của một dân tộc
anh hùng.
Sở dĩ VHNT có thể
gánh vác được trọng trách ấy vì VHNT góp phần giáo dục, hoàn thiện con người. Về
mặt bản chất, VHNT là sự thể hiện lý tưởng về cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong
đời sống tự nhiên và xã hội. Thông qua VHNT, con người thể hiện niềm mong mỏi về
sự tồn tại vĩnh cửu của cái đẹp, cái hoàn thiện, cái lương thiện. Nghĩa là tất
cả những mong ước của con người về một cuộc sống an toàn, hạnh phúc, đẹp đẽ đều
gửi gắm vào đây. Do vậy, tất cả các loại hình VHNT đạt đến đỉnh cao đều thực hiện
được sứ mệnh chủ yếu của mình là góp phần làm phong phú đời sống tinh thần của
con người, làm cho con người sống có ý nghĩa hơn, cao đẹp hơn.
Tuy nhiên, sự
giáo dục của VHNT không chỉ là giáo dục trong khuôn khổ phạm vi đạo đức, chính
trị, pháp luật mà rộng hơn và sâu hơn là sự giáo dục, cảm hóa của chủ nghĩa
nhân văn, có khả năng cải biến toàn bộ tinh thần, đạo đức của con người. VHNT
không đơn thuần chỉ là truyền tải cái đẹp, giúp con người biết thưởng thức cái
đẹp mà còn hướng con người đến cách sống đẹp. Nghĩa là, VHNT có thể giúp con
người tự nhận thức chính mình, vượt lên bản thân mình để chia sẻ, cảm thông và
có những hành động tốt đẹp vì cộng đồng. Đây chính là sự “thanh lọc” hay khả
năng “nhân đạo hóa” của VHNT.
Trong định hướng
xây dựng, phát triển VHNT hiện nay, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “VHNT là
lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa; là nhu cầu thiết yếu, thể
hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là một trong những động lực to lớn
trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn
diện của con người Việt Nam”. Vì vậy, vai trò của văn hóa nghệ thuật không
chỉ ở trong nhận thức mà phải được hiện thực hóa để trở thành động lực, sức mạnh
nội sinh thực sự của con người. VHNT phải được sử dụng như một vũ khí đặc biệt
để đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, thanh lọc, giành lấy những phần tươi sáng,
tốt đẹp của cuộc sống, con người. Thứ vũ khí sắc bén nếu không được mài sáng,
phát huy thì cũng chỉ như lý luận suông mà thôi. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Văn
hóa phải thiết thực phục vụ Nhân dân, góp phần vào việc nâng cao đời sống vui
tươi, lành mạnh của quần chúng. Vì vậy, nội dung văn hóa phải có ý nghĩa giáo dục”.
VHNT luôn cần phải phát huy tác dụng đặc biệt quan trọng, to lớn của nó trong
cuộc đấu tranh và cải tạo xã hội.
Trong bài phát
biểu tại Lễ kỷ niệm 70 năm thành lập Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam
(1948-2018), đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đấu tranh bảo
vệ, nuôi dưỡng, khẳng định cái mới, cái tích cực, cái tốt đẹp và chống cái ác,
cái xấu xa, cái thấp hèn là chức năng, nhiệm vụ tự thân của VHNT, nó không có bất
cứ một áp lực từ trên hay từ bên ngoài vào. Đảng không áp đặt, ép buộc, gán cho
VHNT một nhiệm vụ “chính trị” khô khan, giản đơn, nhất thời nào, mà hiểu nó như
một sứ mệnh, một sức mạnh vốn có của VHNT chân chính, đặc biệt trong cuộc đấu
tranh ngày hôm nay”.
Với chức năng cảm
hóa con người, cải tạo xã hội, VHNT cũng là một bộ phận không thể tách rời của
cách mạng Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân
tộc và Nhân dân. Để làm tròn sứ mệnh ấy, văn nghệ phải có tổ chức, văn nghệ sĩ
phải đoàn kết. Bác nhận xét rằng: “Nói riêng là giới văn nghệ đã có những
đóng góp đáng kể... Các ngành văn nghệ đoàn kết; đoàn kết nhằm vào mục đích
chung phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Chúng ta làm thế thì văn nghệ sĩ nhất
định sẽ tiến bộ hơn nữa, đồng thời có lực lượng mà giúp đỡ Nhân dân tiến bộ hơn
nữa”. VHNT, đúng như quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, là “hoạt động
tinh thần phong phú, một niềm vui thích mà con người có thể tạo ra cho mình,
nhưng nó không phải là một sản phẩm tự nhiên, tùy thích”. Để thực hiện được
chức năng của nó, VHNT cần vận động, phát triển theo những định chuẩn phổ quát
về cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Nghĩa là, mục đích của sáng tác VHNT phải gắn bó
với yêu cầu xã hội, với cuộc sống Nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ lâu dài
cũng như trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Bất cứ giai đoạn nào, nền VHNT vẫn
cần thể hiện tính cách như là một mặt trận, có tính tổ chức, có định hướng, có
mục tiêu cụ thể, đấu tranh với cái ác, cái xấu, cái thấp hèn để giành lại cái tốt
đẹp, “tươi vui” cho cuộc sống và tâm hồn con người.
Do vậy, VHNT
luôn tham gia tích cực vào tiến trình phát triển ý thức xã hội, tiến trình tiến
bộ xã hội. Đó không chỉ là mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự phát
triển của nền VHNT nước nhà, mà thực tiễn lịch sử cũng đã chứng minh: “Trong
lịch sử phát triển hàng nghìn năm của dân tộc, VHNT Việt Nam đã hun đúc nên một
truyền thống sâu sắc và độc đáo. Đó là nền VHNT yêu nước và nhân văn, gắn bó
máu thịt với Nhân dân và dân tộc, trở thành nguồn sức mạnh nội sinh to lớn, góp
phần trực tiếp vào sự nghiệp dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước”.
Sự thật