Sign In

Quy định cụ thể hơn đối với những chính sách thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp công nghệ số trong nước

11:01 30/11/2024
Sáng 30-11, Quốc hội thảo luận về dự án Luật Công nghiệp công nghệ số. Đóng góp ý kiến tại phiên thảo luận toàn thể ở hội trường, đại biểu Trần Thị Vân, Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Ninh đánh giá cao Cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc tiên phong thiết kế những quy định mới và khó tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển đột phá của ngành công nghiệp công nghệ số, đồng thời tham gia 4 ý kiến.

Sáng 30-11, Quốc hội thảo luận về dự án Luật Công nghiệp công nghệ số. Đóng góp ý kiến tại phiên thảo luận toàn thể ở hội trường, đại biểu Trần Thị Vân, Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Ninh đánh giá cao Cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc tiên phong thiết kế những quy định mới và khó tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển đột phá của ngành công nghiệp công nghệ số, đồng thời tham gia 4 ý kiến.

Thứ nhất, về chính sách phát triển Công nghiệp Công nghệ số: Doanh nghiệp nhỏ và vừa  (DNNVV) hiện chiếm tỷ lệ lớn, sử dụng gần 1/2 tổng số lao động và đóng góp khoảng 40% GDP hàng năm; được đánh giá cao về tiềm năng, thế mạnh trong lĩnh vực chế tạo, điện-điện tử và công nghệ thông tin. Để khai thác nguồn lực này Cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu bổ sung các chính sách đặc thù phát triển doanh nghiệp công nghệ số nhỏ và vừa. Theo đó cần quy định cụ thể các chính sách ưu đãi hỗ trợ về thông tin, cắt giảm thủ tục hành chính gồm: Thủ tục cấp phép, quy trình đo lường, kiểm định, việc hỗ trợ tiếp cận nguồn vốn giá rẻ thông qua việc xem xét hỗ trợ bảo lãnh hoặc được bảo lãnh từ các ngân hàng. Nghiên cứu quy định cụ thể, rõ ràng hơn đối với những chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp (DN) công nghệ số trong nước, bảo đảm cạnh tranh với các DN nước ngoài, Chính phủ cần tăng chi tiêu công để đặt hàng các doanh nghiệp số trong nước, tạo động lực thúc đẩy phát triển Doanh nghiệp công nghệ số, sản phẩm, dịch vụ công nghệ số “make in Việt Nam”.

Thứ hai, về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát: Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát được đề cập và quy định tại Nghị quyết 98 và Nghị quyết 136 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng cũng như trong Luật Thủ đô. Vấn đề này dự kiến sẽ quy định tại dự thảo Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo. Đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, rà soát để bảo đảm tính thống nhất và khả thi của các quy định tại dự thảo Luật. Cụ thể, về thời hạn thử nghiệm, Luật Thủ đô và Nghị quyết số 136 đều quy định thời hạn thực hiện thử nghiệm có kiểm soát tối đa là 03 năm và có thể được gia hạn 01 lần không quá 03 năm, trong khi đó dự thảo Luật chỉ quy định thời gian thử nghiệm tối đa là 02 năm. Về áp dụng các quy phạm mang tính đặc thù cho hoạt động thử nghiệm có kiểm soát. Tại phiên thảo luận tổ, có ý kiến cho rằng chỉ nên thử nghiệm có kiểm soát các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp số ở các địa phương có cơ chế đặc thù như Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. Đề nghị nghiên cứu, rà soát đối với địa phương có tỷ trọng kinh tế số/GRDP lớn được thực hiện cơ chế thử nghiệm có kiểm soát. Ví dụ như Bắc Ninh, hiện nay tỷ trọng kinh tế số chiếm 56,83%/GRDP- dẫn đầu cả nước.

Thứ ba, về công nghiệp bán dẫn: Công nghiệp bán dẫn được xem như mạch máu của nền kinh tế hiện đại, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh. Tháng 10 - 2023, tập đoàn Amkor đã khánh thành nhà máy bán dẫn lớn nhất thế giới tại Bắc Ninh với tổng vốn đầu tư 1,6 USD, nâng tổng số vốn đầu tư vào ngành công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam lên đến 6,16 USD vào cuối năm 2024. Điều này không chỉ giúp phục hồi nền kinh tế sau đại dịch, mà còn  nâng cao vị thế của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu từ khâu đóng gói, kiểm thử đến thiết kế, chế tạo chíp bán dẫn. Để hoàn thành mục tiêu 3 giai đoạn của chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn Việt Nam đến năm 2030, đề nghị Ban soạn thảo tiếp tục nghiên cứu có chính sách làm đòn bẩy đảm bảo đủ nguồn nhân lực kỹ thuật cao và hệ sinh thái công nghiệp hoàn chỉnh, với cơ sở hạ tầng công nghệ và dịch vụ phụ trợ đồng bộ, đảm bảo ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam phát triển.

Thứ tư, về trí tuệ nhân tạo (AI): Đây là xu thế phát triển tất yếu, sự bùng nổ nhận thức về AI, đòi hỏi có giải pháp hạn chế rủi ro, ảnh hưởng của AI đối với đời sống kinh tế và đạo đức xã hội. Bộ KHCN và Bộ TTTT đang tổng hợp xây dựng 17 tiêu chuẩn giải quyết các vấn đề về AI, việc này là cần thiết nhằm giảm thiểu tối đa, hướng tới, loại bỏ rủi ro, nguy cơ gây mất an toàn hệ thống, tăng cường nhân lực, năng lực cạnh tranh và đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, đề nghị gộp các tiêu chuẩn quốc gia theo nhóm tiêu chuẩn thay vì 17 tiêu chuẩn để quy định các tiêu chuẩn theo chuỗi, lĩnh vực và nhóm vấn đề giúp các đối tượng chịu sự tác động dễ thực hiện, tiết giảm chi phí và thời gian xây dựng tiêu chuẩn. Đồng thời xin đề nghị Chính phủ sớm ban hành quy định về khu công nghệ số tập trung để các địa phương đã được Thủ tướng phê duyệt quy hoạch (trong đó có Bắc Ninh) sớm triển khai thực hiện.

Thái Uyên

Tag:

File đính kèm