Sign In

Kết quả, bài học kinh nghiệm và một số giải pháp trọng tâm nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ và chất lượng công tác cán bộ nữ trong hệ thống chính trị (HTCT) tỉnh

07:53 29/03/2024
Kết quả, bài học kinh nghiệm và một số giải pháp trọng tâm nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ và chất lượng công tác cán bộ nữ trong HTCT tỉnh

 Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác cán bộ nữ. Trong bài nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo cấp huyện, Người đã thẳng thắn phê bình: “Cán bộ nữ ít như vậy là một thiếu sót. Các đồng chí phụ trách lớp học chưa quan tâm đến việc bồi dưỡng cán bộ nữ. Đây cũng là thiếu sót chung ở trong Đảng. Nhiều người còn đánh giá không đúng khả năng của phụ nữ, hay thành kiến, hẹp hòi. Như vậy là rất sai”[1]. Người khẳng định: “Nói phụ nữ là nói phần nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa”[2], từ những quan điểm trên, có thể thấy rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh rất đề cao và coi trọng vị trí, vai trò của nữ giới trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Người nhận thấy rằng phụ nữ có nhiều khả năng làm lãnh đạo, có nhiều người có thể tham gia công tác lãnh đạo ở cơ sở, nhiều người rất giỏi.
Đ/c Nguyễn Hồng Lĩnh - UVBCH TW Đảng, Bí thư Tỉnh ủy trao quyết định về công tác cán bộ

Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của Bác về vị trí, vai trò của phụ nữ, ngày 10/01/1967, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 153-NQ/TW về công tác cán bộ nữ, trong đó, nhấn mạnh: “Sự nghiệp giải phóng phụ nữ là trách nhiệm chung của toàn Đảng, của Nhà nước, của xã hội, song lực lượng phụ nữ, trong đó, đội ngũ xung kích là lực lượng cán bộ nữ ở tất cả các lĩnh vực phải phát huy vai trò chủ động của mình; phong trào phụ nữ càng phát triển thì đội ngũ cán bộ phụ nữ càng có điều kiện để phát triển mạnh mẽ, và ngược lại sự phát triển của đội ngũ cán bộ nữ sẽ có tác động lớn đến sự nghiệp giải phóng phụ nữ và phải là đội ngũ đi đầu trong phong trào phụ nữ. Vấn đề cán bộ nữ phải được đặt ra gắn liền với yêu cầu của sự nghiệp giải phóng phụ nữ và phong trào phụ nữ, và phải được toàn Đảng quan tâm giải quyết một cách tích cực nhấtCác cấp, các ngành cần nhận rõ vị trí và vai trò vô cùng trọng yếu của lực lượng phụ nữ, nhận rõ trách nhiệm lớn lao của phụ nữ trên các lĩnh vực công tác cũng như nhận rõ vị trí và vai trò của đội ngũ cán bộ nữ trong sự nghiệp cách mạng của Đảng nói chung, trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ nói riêng, để phát huy ưu điểm trong công tác vận động phụ nữ và công tác cán bộ nữ, kiểm điểm một cách nghiêm khắc những thiếu sót của mình đối với các công tác đó để đưa phong trào phụ nữ và công tác cán bộ nữ phát triển một cách nhanh chóng hơn nữa.”. Từ cơ sở trên, Nghị quyết cũng đã xác định những nhiệm vụ cần phải chú trọng: “(1) Đánh giá đúng đắn cán bộ nữ, kiên quyết và mạnh bạo sử dụng, đề bạt cán bộ nữ, kiên trì đấu tranh chống tư tưởng phong kiến, hẹp hòi trong việc đề bạt, sử dụng cán bộ nữ; Ra sức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, kịp thời đáp ứng yêu cầu về mở rộng và nâng cao đội ngũ cán bộ; (3) Cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nữ trẻ tuổi, nhất là ở cơ sở; (4) Các cấp ủy đảng, các ban, các đảng đoàn, các tổ chức cơ sở đảng, các thủ trưởng các cơ quan cần quan tâm đưa công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phụ nữ đi vào quy hoạch cụ thể và lâu dài với tinh thần kiên trì đầy đủ, và cần có biện pháp chấp hành một cách kiên quyết, nghiêm chỉnh các chính sách của Đảng đối với việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ”. Từ việc ban hành Nghị quyết, có thể thấy Đảng ta rất quan tâm đến công tác cán bộ nữ, đây là nội dung quan trọng và được xác định phải thực hiện một cách toàn diện từ việc quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng đến sử dụng, đề bạt CB nữ, kiên trì đấu tranh chống tư tưởng phong kiến, hẹp hòi trong việc đề bạt, sử dụng CB nữ; có thể xem đây là Nghị quyết tiền đề, nền tảng cho việc ban hành các nghị quyết, chỉ thị sau này của Đảng về công tác cán bộ nữ.

 Bước vào thời kỳ mới, Đảng ta tiếp tục quan tâm đến công tác cán bộ nữthông qua việc ban hành các văn bản như: Chỉ thị 44-CT/TW, ngày 07/6/1984 của Ban Bí thư “Về một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ”; Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị về “Đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”; Chỉ thị số 37-CT/TW, ngày 16/5/1994 của Ban Bí thư về “Một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới”; Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nuớc”,... Và gần nhất, Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19/5/2018 của Hội nghị Trung ương 7 “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, đã đề ra mục tiêu đến năm 2030: “Phải có cán bộ nữ trong cơ cấu ban thường vụ cấp uỷ và tổ chức đảng các cấp. Tỉ lệ nữ cấp uỷ viên các cấp đạt từ 20-25%; tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đạt trên 35%”; Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị về “Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”, đề ra mục tiêu: “Phấn đấu đạt tỷ lệ cấp ủy viên nữ từ 15% trở lên và có cán bộ nữ trong ban thường vụ”; Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc.”[3]. Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng đều có điểm chung ở mục tiêu hướng đến là tập xây dựng nguồn nhân lực, nâng cao vị trí vai trò, tầm quan trọng, tỷ lệ của nữ giới trong HTCT và trong xã hội; bên cạnh đó, có thể nhận thấy điểm khác biệt rõ nhất là các nghị quyết, chỉ thị ban hành về sau đã dần chuyển hóa các mục tiêu chung của văn bản trước thành các tiêu chí, tỷ lệ để phấn cho từng giai đoạn cụ thể, điều này chứng tỏ Đảng đã dần đánh giá đúng và sát thực trạng, tiềm năng, vị thế của nữ giới nói chung và cán bộ nữ nói riêng trong quá trình phát triển của đất nước.
Ở Đồng Nai, thời gian qua, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã tập trung chỉ đạo các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội đẩy mạnh công tác tuyên truyền các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phụ nữ và công tác phụ nữ; trọng tâm là tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 07-NQ/TU, ngày 28/11/2007 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chỉ thị số 13-CT/TU, ngày 04/4/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Chỉ thị số 33-CT/TU, ngày 20/3/2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “Tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới”. Đặc biệt, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Kết luận số 43-KL/TU, ngày 30/9/2016 về Đề án “Tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý và phát huy vai trò của phụ nữ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, giai đoạn 2016-2020” (viết tắt là Đề án 43) và Kết luận số 250-KL/TU, ngày 22/7/2021 về “Tiếp tục thực hiện Đề án Tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý và phát huy vai trò của phụ nữ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đến năm 2025”, đây có thể xem là những văn bản quan trọng, tạo chuyển biến rõ nét trong phát huy vai trò của nữ giới và đội ngũ cán bộ nữ trên địa bàn tỉnh.
Qua thực hiện Đề án 43 và Kết luận 250-KL/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, công tác cán bộ nữ của tỉnh trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả tích cực, cụ thể như sau: (1) Công tác đào tạo, bồi dưỡng: Từ năm 2021 đến nay, đã cử 1033/2018 đồng chí (viết tắt là đ/c) cán bộ nữ tham gia đào tạo trình độ trung cấp lý luận chính trị (tỷ lệ 51,18%); đào tạo cao cấp lý luận chính trị 271/919 đ/c (tỷ lệ 29,48%); bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ hội phụ nữ các cấp 391 đ/c. Kết quả đào tạo, bồi dưỡng đã góp phần quan trọng chuẩn hóa đội ngũ cán bộ nữ theo tiêu chuẩn chức danh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; đặc biệt 100% cán bộ chủ chốt Hội Liên hiệp phụ nữ cấp tỉnh, cấp huyện đạt chuẩn theo quy định. cán bộ nữ sau đào tạo, bồi dưỡng đã phát huy kiến thức vào thực tiễn công tác, góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương. (2) Công tác quy hoạch: Công tác quy hoạch cán bộ nữ được chú trọng, tỷ lệ cán bộ được quy hoạch cấp ủy và các chức danh lãnh đạo quản lý các cấp nhiệm kỳ 2025-2030 tăng so với nhiệm kỳ 2020-2025. Tỷ lệ nữ trong quy hoạch Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đạt tỷ lệ 27,16% (tăng 0,65%); các chức danh lãnh đạo sở, ngành tỉnh đạt tỷ lệ 41,52% (tăng 4,23%); Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đạt tỷ lệ 30,66% (tăng 0,58%), các chức danh lãnh đạo cấp phòng trở lên đạt tỷ lệ 45,19% (tăng 5,05%), Ban Chấp hành Đảng bộ xã đạt tỷ lệ 51,45% (tăng 4,57%), các chức danh chủ chốt cấp xã đạt tỷ lệ 32,34% (tăng 3,54%). (3) Công tác đề bạt, bổ nhiệm, bố trí, sử dụng cán bộ nữ: Cán bộ nữ tham gia cấp ủy tỉnh nhiệm kỳ 2020-2025 có 11/50 đ/c (chiếm tỷ lệ 22%), cấp ủy huyện có 106/459 đ/c (chiếm tỷ lệ 23,09%), cấp ủy xã có 557/1937 đ/c (chiếm tỷ lệ 28,76%). Cấp tỉnh có 01 đ/c Phó Chủ tịch UBND tỉnh và 01 đ/c Phó Chủ tịch HĐND tỉnh là nữ, 50/173 đ/c lãnh đạo sở, ban, ngành tỉnh là nữ; có 16/76 đ/c lãnh đạo huyện, thành phố là nữ; 804/1575 đ/c lãnh đạo phòng, ban, ngành huyện là nữ; có 218/951 đ/c lãnh đạo cấp xã (giữ chức vụ phó chủ tịch trở lên) là nữ. Có 33/54 đ/c sở, ban, ngành thuộc hệ thống chính trị tỉnh có cán bộ nữ (chiếm tỷ lệ 61,11%), có 7/11 UBND huyện có cán bộ nữ trong lãnh đạo UBND (chiếm tỷ lệ 63,63%). (4) Công tác phát triển đảng viên nữ: Công tác phát triển đảng đối với cán bộ nữ được các cấp ủy đảng chú trọng. Hội phụ nữ các cấp tập trung đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền, vận động, tổ chức các phong trào, hoạt động cụ thể; phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác phát triển đảng viên nữ ở địa phương, hàng năm tiến hành rà soát, phát hiện, lựa chọn những CB nữ có triển vọng, nhất là CB trẻ để bồi dưỡng phát triển. Giai đoạn từ năm 2021 đến 2023, toàn đảng bộ tỉnh đã phát triển được 2997 đảng viên nữ trên tổng số 6135 đảng viên mới (đạt tỷ lệ 48,85%), riêng năm 2023 tỷ lệ kết nạp đảng viên nữ đạt tỷ lệ 49,12% (tăng 0,17% so với năm 2021). Hiện nay tỷ lệ đảng viên nữ chiếm 39,94% trong tổng số đảng viên toàn tỉnh. (5) Về chế độ, chính sách đối với cán bộ nữ: cùng với việc thực hiện tốt các khâu khác trong công tác cán bộ thì công tác chế độ chính sách đối với cán bộ nữ cũng được tỉnh quan tâm và thường xuyên thực hiện, đương cử như việc khi cán bộ nữ được cử tham gia các lớp đào tạo bồi dưỡng sẽ được nhận thêm kinh phí hỗ trợ dành riêng cho cán bộ nữ hoặc nếu có con nhỏ dưới 36 tháng tuổi sẽ nhận thêm một khoản hỗ trợ theo quy định, qua đó, đã thể hiện sự quan tâm của các cấp ủy đối với cán bộ nữ, khuyến khích, động viên cán bộ nữ an tâm công tác.
 Việc thực hiện tốt các khâu trong công tác cán bộ nữ đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nữ. Trình độ chuyên môn, năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ nữ đang dần được nâng lên đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của công việc và sự phát triển của xã hội. Có được những thành quả trên trước hết là nhờ sự quan tâm, chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy trong việc thực hiện tốt các khâu của công tác cán bộ, đặc biệt là công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ nữ, đáp ứng được nhu cầu trước mắt và lâu dài của tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình thực hiện công tác cán bộ nữ vẫn còn những hạn chế như trong tập thể lãnh đạo một số cơ quan, đơn vị cấp tỉnh và một số địa phương chưa có cán bộ nữ; việc bố trí, sử dụng cán bộ nữ ở cấp cơ sở và việc phát hiện tạo nguồn cán bộ nữ có nơi còn hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trên là do một số cấp ủy, chính quyền vẫn còn xem công tác cán bộ nữ là của Hội Liên hiệp Phụ nữ, chưa thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng. Một số đơn vị do đặc thù ngành nên cán bộ nữ rất ít dẫn đến thực hiện chủ trương bố trí cán bộ nữ trong ban lãnh đạo gặp khó khăn; nhận thức của một số cấp ủy và lãnh đạo cơ quan làm công tác tham mưu về nhân sự chưa đầy đủ, chưa thấy hết vị trí, ý nghĩa của việc quy hoạch và sử dụng cán bộ nữ tại địa phương mình vì thế chưa xây dựng kế hoạch tạo nguồn cán bộ nữ cho các cơ quan; hệ thống chính sách đối với phụ nữ nói chung và công tác cán bộ nữ nói riêng chưa kịp thời và thiếu đồng bộ nên chưa động viên, khuyến khích được phụ nữ tham gia các hoạt động chính trị, quản lý xã hội. Một bộ phận cán bộ nữ vẫn còn tư tưởng an phận, thiếu ý chí phấn đấu, còn tâm lý e ngại khi được luân chuyển, bố trí công tác xa gia đình.

Từ những kết quả đạt được và những khó khăn trong quá trình thực hiện công tác cán bộ nữ, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm sau:

Một là, nâng cao nhận thức của cấp ủy các cấp lànguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất trong việc nâng cao chất lượng, tỷ lệ cán bộ nữ trong HTCT tỉnh. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác này, trọng tâm là phát huy vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng cùng với sự tổ chức, điều hành của chính quyền, sự giám sát của Hội đồng nhân dân và tham gia tuyên truyền, vận động của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Kịp thời cụ thể hóa các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương về công tác cán bộ nữ phù hợp với tình hình địa phương. Trong quá trình thực hiện cần chú trọng sơ kết, tổng kết đánh giá tình hình và chủ động đề ra các giải pháp tiếp tục phát huy những mặt đạt được, khắc phục những mặt chưa làm được.

Hai là,triển khai và thực hiện đúng theo quy định về các chế độ, chính sách liên quan đến cán bộ nữ. Chủ động ban hành các quy định thực hiện các chính sách hỗ trợ dành riêng cho cán bộ nữ nhằm kịp thời động viên và đảm bảo quyền lợi thiết thực cho cán bộ; thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ nữ; rà soát, phát hiện, lựa chọn những cán bộ nữ có triển vọng để bổ sung quy hoạch và có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tạo điều kiện cho cán bộ nữ tham gia học tập, phấn đấu phát triển.

Ba là, phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra kịp thời chấn chỉnh trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các chủ trương của Đảng, Nhà nước đối với công tác cán bộ nữ ở các cấp, các ngành. Đồng thời, phải thường xuyên theo dõi, lắng nghe, quan tâm hỗ trợ, động viên, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ nữ khắc phục khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao.

Để xây dựng đội ngũ cán bộ của tỉnh nói chung và cán bộ nữ nói riêng trong thời gian tới cần tập trung thực hiện một số giải pháp trọng tâm sau:

- Một là, tiếp tục quán triệt sâu rộng Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 07-NQ/TW của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Đề án 43 và Kết luận số 250-KL/TU, ngày 22/7/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về tiếp tục thực hiện Đề án Tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý và phát huy vai trò của phụ nữ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đến năm 2025. Làm cho các cấp ủy, cán bộ, đảng viên nhận thức đầy đủ về vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ nữ, nâng cao nhận thức trong các cấp ủy và tổ chức đảng, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và quan trọng hơn là phải nâng cao nhận thức của xã hội, ủng hộ sự tham gia của cán bộ nữ vào các lĩnh vực hoạt động của HTCT.

Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa các khâu trong công tác cán bộ nói chung và công tác cán bộ nữ nói riêng. Thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ, đảm bảo cơ cấu tỷ lệ nữ trong quy hoạch theo quy định. Đối với cấp huyện và tương đương trở lên thực hiện tốt chủ trương phải có cán bộ nữ trong cơ cấu lãnh đạo nhằm xây dựng, phát triển đồng bộ, hợp lý, có tính kế thừa, liên tục trong đội ngũ cán bộ nữ. Hàng năm, trên cơ sở quy hoạch cán bộ, các cấp ủy, chính quyền chủ động rà soát xây dựng kế hoạch cử cán bộ nữ tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng nhằm đáp ứng tiêu chuẩn chức danh theo quy định.

Ba là, rà soát, hoàn thiện chế độ, chính sách phụ cấp, ưu đãi đối với cán bộ nữ phù hợp điều kiện thực tế và đảm bảo quyền lợi thiết thực cho cán bộ. Các cấp ủy, chính quyền, tổ chức trong HTCT các cấp cần quan tâm giúp đỡ, động viên cán bộ nữ có hoàn cảnh khó khăn, có niềm tin, nghị lực tiếp tục công tác tốt hơn. Trong phân công, bố trí cán bộ nữ phải chú ý đến điều kiện sức khỏe, khả năng, hoàn cảnh của từng cán bộ, tạo mọi điều kiện để cán bộ nữ hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Thực hiện trẻ hóa đội ngũ cán bộ nữ kết hợp tốt ba độ tuổi, bảo đảm tính liên tục, phát triển trong đội ngũ cán bộ.

Bốn là, tăng cường công tác phát triển đảng viên nữ. Quan tâm bồi dưỡng kết nạp những quần chúng nữ có trình độ và trưởng thành qua các phong trào thực tiễn ở cơ sở, đây là giải pháp quan trọng trong việc tạo nguồn cán bộ nữ nhằm bổ sung nguồn lực mới cho Đảng. Đồng thời, phát huy vai trò của tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp trong tham mưu công tác cán bộ nữ; tăng cường phối hợp đào tạo, bồi dưỡng, giới thiệu nhân sự nữ đủ tiêu chuẩn tham gia cấp ủy.

Như vậy, trong từng giai đoạn lịch sử, dù là trong gian khổ của cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc hay trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta nói chung và Đảng bộ tỉnh Đồng Nai nói riêng luôn coi trọng, đề cao vị trí, vai trò của nữ giới và đội ngũ cán bộ nữ. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay dưới sự tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xu hướng ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) vào giải quyết các vấn đề cuộc sống, Đảng bộ tỉnh đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị nhằm phát huy vai trò của nữ giới, nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ trong HTCT tỉnh, trên cơ sở đó đội ngũ cán bộ nữ của tỉnh có nhiều cơ hội để phát triển bản thân, nâng cao vị thế trong xã hội. Để làm được điều đó trước hết mỗi cán bộ nữ cần phải thay đổi nhận thức, tích cực, chủ động học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, khả năng công tác; các cấp ủy, tập thể lãnh đạo cần bám sát chủ trương của Đảng vể công tác cán bộ nữ, xây dựng kế hoạch quy hoạch tạo nguồn, quan tâm đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ làm cơ sở để bổ sung cán bộ nữ vào cấp ủy các cấp và các chức danh lãnh đạo quản lý trong HTCT tỉnh.

Bùi Văn Tân

 

[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, Tập 15, Trang 275.

[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, Tập 7, Trang 300.

[3] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, Tập 1, Trang 169.

 

Tag:

File đính kèm