Trong những giai đoạn phát triển có tính bước ngoặt của mỗi quốc gia, quá trình đổi mới tư duy dựa trên nền tảng nhận thức mới về thực tiễn phát triển là yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành công của các quyết sách. Vì có đổi mới tư duy, mới tạo được bước phát triển đột phá về lý luận phát triển, làm cơ sở cho xây dựng đường lối, thể chế, cơ chế, chính sách phát triển. Thực tiễn quá trình xây dựng và phát triển tỉnh Long An đã chứng minh rằng khi có những chủ trương đột phá, đổi mới, mạnh dạn đổi mới và sáng tạo trong tư duy lãnh đạo đã làm nên những thành tựu to lớn, tạo nên lợi thế cho tỉnh Long An vươn lên phát triển mạnh mẽ.
Trong thời kỳ đổi mới, Đề án cải tiến phân phối lưu thông hay giá, lương, tiền của tỉnh Long An là một minh chứng rõ ràng nhất của sự đòi hỏi đổi mới tư duy trong từng giai đoạn lịch sử. Mạnh dạn đổi mới tư duy trong phát triển kinh tế, khởi đầu từ Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Long An về việc mua bán hàng hóa theo giá thỏa thuận trong phạm vi toàn tỉnh vào năm 1980. Lịch sử đã chứng minh đây là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với yêu cầu thực tế, với quy luật kinh tế khách quan, được các tầng lớp nhân dân đồng tình, ủng hộ, tạo nên bước đột phá trong cải cách kinh tế của tỉnh, được Trung ương ghi nhận, nghiên cứu và nhân rộng trên phạm vi cả nước, đóng góp cơ sở thực tiễn hình thành đường lối Đổi mới của Đảng. Bài học thứ hai về đổi mới tư duy trong lãnh đạo của tỉnh Long An có thể kể đến đó là chủ trương tiến quân khai phá tiềm năng của Đồng Tháp Mười, khai hoang và đưa vào sử dụng hơn 50.000 hecta đất trồng lúa, biến Đồng Tháp Mười từ một vùng hoang hóa, kém phát triển thành vùng lương thực trọng điểm của tỉnh và của cả nước.
Từ những bài học kinh nghiệm nêu trên, chúng ta có thể thấy rằng ngành nông nghiệp của tỉnh Long An không thể đứng ngoài quy luật tất yếu, yêu cầu cấp thiết về sự đổi mới để phát triển bền vững hơn. Trong thời đại mà nền công nghiệp thế giới đã bước vào Cuộc cách mạng lần thứ tư, thì đã đến lúc nền nông nghiệp cũng phải có bước chuyển mình từ tư duy sản xuất nông nghiệp thuần túy sang nền kinh tế nông nghiệp xanh, bền vững, năng động gắn kết chặt chẽ với thị trường. Tư duy kinh tế nông nghiệp chính là tư duy sử dụng hiệu quả nguồn lực hữu hạn trong nông nghiệp để sản xuất sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị trường và đạt được lợi nhuận cao nhất có thể.
Hơn 35 năm đổi mới, ngành nông nghiệp của tỉnh Long An có nhiều khởi sắc, chuyển dịch theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, bước đầu đã hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, ngành nông nghiệp cả nước nói chung và của tỉnh nói riêng vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế như: Tăng trưởng chưa thật sự bền vững, chưa gắn kết được sản xuất và nhu cầu thị trường. Chí phí sản xuất cao, khả năng cạnh tranh của nhiều loại nông sản còn thấp. Chưa chú trọng gia tăng giá trị cho nông sản, phần lớn nông sản được xuất khẩu dưới dạng tươi, thô nên giá trị không cao; thiếu sự gắn kết chặt chẽ giữa cơ sở công nghiệp chế biến, xuất khẩu nông lâm thủy sản với vùng nguyên liệu. Lạm dụng các loại phân bón, thuốc để gia tăng năng suất mà không chú trọng đến chất lượng và sự an toàn của sản phẩm; không chú ý đến xây dựng nhãn hiệu hàng hóa, truy xuất nguồn gốc…
Xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn, nhằm tập trung tháo gỡ những nút thắt, điểm nghẽn, giải quyết những vấn đề khó khăn, vướng mắc của ngành nông nghiệp cả nước, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã xác định mục tiêu quan trọng cần hướng tới đó là nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh. Để làm được điều này thì một trong những giải pháp quan trọng đột phá là phải chuyển đổi tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp. Đây là nền tảng quan trọng để phát triển nông nghiệp một cách bền vững, tiếp tục là một trong ba trụ đỡ quan trọng của nền kinh tế. Để đạt được mục tiêu trên, ngành nông nghiệp của tỉnh trong thời gian tới cần tập trung vào một số giải pháp trọng tâm như sau:
Trước hết, cần đẩy mạnh tuyên truyền, vận động người dân thay đổi tư duy từ sản xuất nông nghiệp nhỏ, manh mún sang nền kinh tế nông nghiệp hàng hóa tập trung theo các quy chuẩn để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường. Phải xác định việc chuyển đổi tư duy này là việc chung của cả hệ thống chính trị, chứ không phải việc riêng của ngành nông nghiệp; bởi vì, thay đổi một nếp nghĩ, hình thành một tư duy mới đòi hỏi sự chuyển động đồng bộ trong cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở. Bên cạnh đó, sự thay đổi quan trọng nhất cần bắt đầu từ chính mỗi người nông dân, bởi họ chính là chủ thể, những người trực tiếp hằng ngày sản xuất, kinh doanh nông sản. Nhưng muốn thực hiện được vai trò chủ thể, tương xứng, người nông dân cần được nâng cao năng lực thông qua “tri thức hoá”, các cấp chính quyền cần tạo mọi điều kiện hỗ trợ người nông dân được tiếp cận, đào tạo kiến thức, huấn luyện kỹ năng, cập nhật kỹ thuật, công nghệ tiên tiến.
Thứ hai, phải căn cứ nhu cầu của thị trường làm tín hiệu đầu vào để xác định chủng loại, tiêu chuẩn sản phẩm cần sản xuất; chuyển sản xuất từ đơn giá trị sang đa giá trị ngành hàng thông qua chuỗi liên kết. Đẩy mạnh phát triển kinh tế hợp tác để củng cố kinh tế hộ; tăng cường liên kết, hợp tác trong sản xuất, gắn sản xuất, chế biến với thị trường; lấy doanh nghiệp dẫn dắt hình thành các chuỗi giá trị ngành hàng nông sản, cũng như định hướng tiêu chuẩn sản xuất theo yêu cầu tiếp cận thị trường. Khuyến khích người dân khởi nghiệp, lập nghiệp trên lĩnh vực chế biến nông sản, khai thác hiệu quả các sản phẩm địa phương (OCOP); kết nối với thị trường thông qua các hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại, trang thương mại điện tử… Theo đó, người nông dân không chỉ sản xuất nông nghiệp thuần túy mà phải tổ chức lại đời sống nông thôn, cộng đồng nông thôn, hình thành các hợp tác xã với năng lực quản trị mạnh dẫn dắt chuỗi giá trị ngành hàng nhỏ; doanh nghiệp lớn phải là đầu tàu trong chuỗi liên kết. Cùng với đó, các cấp chính quyền địa phương cần phải đánh giá lại năng lực các hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn tỉnh để có giải pháp hỗ trợ thúc đẩy phát triển trở thành hạt nhân nòng cốt trong sản xuất nông nghiệp.
Thứ ba, xây dựng và phát triển bền vững vùng nguyên liệu, đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, tổ chức sản xuất theo hướng đảm bảo an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, giảm thiểu chi phí sản xuất góp phần tạo ra giá trị tăng thêm cho sản phẩm và đáp ứng các tiêu chuẩn không chỉ cho thị trường tiêu thụ nội địa, mà còn cho các thị trường xuất khẩu. Theo đó, người sản xuất phải phân tích so sánh những sản phẩm hàng hóa mình đã sản xuất được so với nhu cầu của người tiêu dùng để tìm cách ứng đáp ứng; từ việc ứng dụng các tiến bộ, công nghệ mới, cải tiến quy trình, cắt giảm chi phí sản xuất, đến việc thay đổi nguyên liệu đầu vào, thay đổi giống cây trồng, vật nuôi... Sau khi thu hoạch người sản xuất sẽ không bán sản phẩm tại vườn, ruộng, chuồng mà sẽ tìm cách gia tăng giá trị, đơn giản nhất là phân loại làm sạch, đóng gói thiết kế nhãn hiệu hàng hóa, sau đó tiến hành sơ chế, chế biến và chế biến sâu, đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, truy xuất nguồn gốc…
Thứ tư, phát triển nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa kém hiệu quả, tạo thêm giá trị mới trên đơn vị diện tích canh tác. Theo đó, nghiên cứu triển khai những mô hình sản xuất nông nghiệp thông minh, thích ứng với những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, nhất là sự suy giảm số lượng, chất lượng nguồn nước sông Mê Kông và tình trạng xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh đó, phải từng bước tổ chức lại không gian sản xuất, quy mô sản xuất, quy hoạch lại ngành hàng phù hợp với tiềm năng, lợi thế của từng vùng sinh thái đặc trưng kết hợp với đầu tư xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng (giao thông, thủy lợi, điện…). Ngoài ra, cần có cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển du lịch kết hợp nông nghiệp sinh thái; phát triển nông nghiệp kết hợp với năng lượng tái tạo, phát triển nông nghiệp kết hợp với giáo dục hướng nghiệp… xây dựng một hệ sinh thái nông nghiệp bền vững, thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp.
Với phương châm “nguồn lực bắt nguồn từ tư duy, động lực bắt nguồn từ đổi mới, sức mạnh bắt nguồn từ nhân dân”, ta có thể thấy rằng đổi mới tư duy, thay đổi cách tiếp cận sẽ tạo ra nhiều không gian phát triển mới, những giá trị mới cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Chuyển đổi tư duy “sản xuất nông nghiệp” sang “kinh tế nông nghiệp” chính là cơ sở để thực hiện hiệu quả chiến lược xây dựng ngành nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh; có như vậy, người nông dân mới có thể tự tin vào năng lực của mình, có thể đứng vững trước sóng gió thị trường trong thời đại mới. Thách thức đặt ra chính là làm thế nào để quá trình chuyển đổi ấy diễn ra thuận lợi nhất có thể, đó là câu hỏi đặt ra cho cả hệ thống chính trị tỉnh, từ cấp lãnh đạo cao nhất đến từng người nông dân. Với tư duy “đi cùng nhau” sẽ giúp chúng ta “đi nhanh hơn và đi xa hơn”, khi và chỉ khi có sự đồng hành, hỗ trợ, vào cuộc của các cấp, các ngành có liên quan và sự kết nối giữa những người tâm huyết trong xã hội với cán bộ, công chức tâm huyết trong bộ máy, chúng ta mới nhân lên nhiều lần kết quả mang lại, rút ngắn con đường đạt được mục tiêu trong ngắn hạn và dài hạn.
Nguyễn Văn Được - Ủy viên Trung ương Đảng,
Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh