1. Biến nhà tù đế quốc thành “trường học cách mạng”. Tại nhà lao Vĩnh Điện, ngày 6/1/1940, chính quyền Nam triều mở phiên tòa xét xử những người cộng sản.
Đồng chí Trần Tống - nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam cùng các đồng chí bị địch đưa ra xét xử. Với tài hùng biện và vốn lý luận của mình, đồng chí đã biến phiên tòa thành nơi tố cáo tội ác của bọn thực dân phong kiến, bảo vệ lý tưởng cách mạng của mình, tuyên truyền ảnh hưởng trước nhân dân tham dự phiên tòa, bác bỏ cả phiên tòa, bác bỏ bản án của kẻ địch, hô vang các khẩu hiệu “Đả đảo đế quốc Pháp”, “Việt Nam hoàn toàn độc lập”, hát vang các bài ca cách mạng.
Phiên tòa đã gây chấn động mạnh trong dư luận, đánh một đòn đau vào bọn tay sai. Cuộc đấu tranh này đã gây tiếng vang lớn, nhân dân bàn luận là “Cộng sản lật ghế quan tòa”.
Sau xét xử, địch chuyển tù nhân xuống nhà lao Hội An. Tại đây, anh em tù nhân lập ra Ban liên lạc nhà lao, đồng thời xác định công tác quan trọng là tuyên truyền, giáo dục cho nhau về tinh thần cách mạng cũng như hiểu biết về Đảng, về phương pháp hoạt động cách mạng để sau khi ra tù có thể tiếp tục hoạt động.
Một trong những công việc đầu tiên được Ban liên lạc chú ý là tổ chức dịch quyển “Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô” từ tiếng Pháp sang tiếng Việt để làm tài liệu giáo dục cho tù nhân học tập và đưa ra bên ngoài để cán bộ, đảng viên và cơ sở sử dụng.
Đồng chí Trần Tống là người đóng vai trò chủ yếu trong việc dịch sách. Trải qua bao khó khăn, gian khổ, cuối cùng tập “Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô” cũng được dịch xong.
Có bản dịch trong tay cùng với vốn kiến thức đã tích lũy được, đồng chí Trần Tống biên soạn một số chuyên đề làm bài giảng huấn luyện. Đồng chí biên soạn được chuyên đề nào, Ban liên lạc và sau đó là Chi ủy nhà lao tổ chức huấn luyện cho tù nhân và chuyển dần ra bên ngoài.
Các chuyên đề được biên soạn trong nhà lao Hội An gồm có: Cách mạng tư sản dân quyền chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa; Chủ nghĩa Cộng sản và xã hội tương lai; Đảng cách mạng kiểu mới của giai cấp công nhân; Những nguyên tắc xây dựng Đảng - Đảng cộng sản; Nông dân và liên minh công nông; Thời cơ để cách mạng nổ ra và thắng lợi; Lý luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; Vấn đề dân tộc trong cách mạng; Điều lệ tóm tắt của Đảng Cộng sản Đông Dương; Công tác chi bộ với nhan đề “Bước đường đi”.
Việc tổ chức huấn luyện trong nhà lao thông qua Ban liên lạc, Chi bộ. Tù nhân phân công nhau truyền đạt nội dung các chuyên đề. Đồng chí Trần Tống chịu trách nhiệm giảng về vấn đề lý luận cơ bản, đồng chí Nguyễn Xuân Nhĩ giảng về vấn đề vận động quần chúng.
Ban liên lạc chủ trương tổ chức huấn luyện trước cho những tù nhân có mức án một, hai năm, để số này khi ra tù có cơ sở vận dụng trong hoạt động thực tiễn cách mạng. Những đồng chí được chọn học trước nằm trong số có trình độ văn hóa, có trí nhớ tốt cũng như nòng cốt ở các bót, như: Trương Nhi, Ngô Huy Diễn, Trương Kim Ấn...
Các giảng viên học thuộc lòng tài liệu, bài giảng, rồi phân công phụ trách từng nhóm hai, ba người. Tù nhân đưa nhau xuống gầm sàn ngủ, chỗ lỗ thông hơi, xem như để thở không khí, mà sự thật là dự huấn luyện, nghe giảng bài, thảo luận; hoặc đến các giờ ra sân thở không khí, cứ hai, ba người vừa bá vai, vừa đi và nghe huấn luyện.
Tài liệu được chuyền luân phiên để đọc, sau đó mỗi người nêu thắc mắc, trao đổi, thảo luận, giải đáp ở tổ, nhóm. Cứ thế công việc này duy trì mãi về sau, có tác dụng đào tạo cán bộ để sau khi mãn hạn tù áp dụng vào công tác.
Đồng chí Trương Chí Cương - nguyên Bí thư Tỉnh ủy kể: “Cuối năm 1940, tôi ra tù, nhờ đã được học tập Điều lệ Đảng trong tù, tôi tự động thành lập một chi bộ đảng và sau khi kiểm tra, đồng chí Võ Toàn đã công nhận chi bộ này”.
Còn đồng chí Trần Minh Hoàng viết: “Chính nhờ trường học trong nhà tù đã nâng cao trình độ lý luận cách mạng cho tôi, sau khi ra tù tôi hoạt động cách mạng hăng say. Ngày khởi nghĩa giành chính quyền năm 1945 ở địa phương, tôi được Ủy ban khởi nghĩa xã cử đứng lên diễn thuyết. Tôi nói một mạch, rất hùng hồn, thu hút được người nghe...”.
2. Đầu năm 1955, sau khi đặt được bộ máy chính quyền ở đồng bằng, địch xúc tiến mạnh việc đưa quân lên đánh phá phong trào cách mạng các huyện miền núi, tiến hành thiết lập bộ máy chính quyền, xuyên tạc chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng ta.
Ngoài việc đấu tranh bảo vệ Hiệp định Giơnevơ, đồng bào các dân tộc miền núi Quảng Nam còn đấu tranh chống lại các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của địch bằng nhiều hình thức nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ uy tín của Bác Hồ.
Tại Bến Giằng (nay là huyện Nam Giang) địch bắt đồng bào treo ảnh Ngô Đình Diệm giữa nhà. Đồng bào nhận treo ảnh Diệm vì không nhận treo ảnh là công khai chống lại và địch vin vào cớ này để đàn áp. Địch bảo đem treo ở nơi trang trọng nhất giữa nhà thì đồng bào đem treo trên giàn bếp. Chúng có hỏi thì đồng bào trả lời: “Người dân chúng tôi cái gì quý nhất đều phải treo trên giàn bếp”. Do treo trên giàn bếp, chỉ buổi sáng đến buổi chiều ảnh Diệm bị khói bếp đóng đầy, lem luốc.
Cũng như Bến Giằng, tại Trà My, địch dùng tranh, ảnh tuyên truyền nói xấu Đảng và Bác Hồ. Để vạch mặt âm mưu của địch, ta thường xuyên lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống lại các hình thức tuyên truyền này của chúng. Ta đã chuẩn bị cho quần chúng nhiều lý lẽ đơn giản theo cách lập luận, suy nghĩ của đồng bào.
Tháng 6/1956, địch tổ chức cuộc mít tinh ở xã Tiên Hương cũng với mục đích tuyên truyền nói xấu cách mạng, nói xấu Đảng và Bác Hồ. Địch đem ra hai cái ảnh, một ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, một ảnh Ngô Đình Diệm và hỏi đồng bào ai xứng đáng lãnh đạo dân?.
Chỉ vào ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, bà con trả lời: “Ông này gầy là vì thương dân, ngày đêm lo nghĩ cho dân, ông xứng đáng lãnh đạo nhân dân”. Xong, chỉ vào ảnh Ngô Đình Diệm, đồng bào nói: “Còn ông này ăn chi mà mập quá, nhất định là không biết lo chi cho dân, không xứng đáng lãnh đạo dân”.
Những lập luận đơn giản, nhưng đầy tính thuyết phục của đồng bào đã làm kẻ địch đuối lý, qua đó góp phần làm thất bại âm mưu đen tối của kẻ thù trong việc mua chuộc, dụ dỗ, xuyên tạc, chủ trương đường lối của Đảng và Bác Hồ.
Qua cuộc đấu tranh này, có thể thấy bằng những lập luận rất đơn giản, giàu hình tượng nhưng vững chắc để đấu lý với địch và dùng chính những luận điệu tuyên truyền của địch để “gậy ông đập lưng ông”. Đó là những sáng tạo, linh hoạt trong công tác tuyên truyền góp phần bảo vệ hình ảnh của Đảng và Bác Hồ.
LÊ NĂNG ĐÔNG