Sign In

Kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái, Chủ tịch Hội đồng tại Hội nghị Hội đồng điều phối vùng Đồng bằng sông Cửu Long

16:09 03/10/2024
(Vinhlong.gov.vn) - Chủ tịch UBND tỉnh đã có văn bản giao Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan triển khai thực hiện và tham mưu UBND tỉnh thực hiện Thông báo số 58/TB-HĐĐPĐBSCL, ngày 09/8/2024 của Hội đồng điều phối vùng Đồng bằng sông Cửu Long theo đúng quy định.

Ngày 01 tháng 7 năm 2024, tại tỉnh Cà Mau, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái, Chủ tịch Hội đồng điều phối vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã chủ trì Hội nghị lần thứ tư của Hội đồng điều phối vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Sau khi nghe Báo cáo tổng hợp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các tham luận, phát biểu của các đại biểu dự Hội nghị, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái, Chủ tịch Hội đồng điều phối Vùng kết luận như sau:

Vùng Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đầu tiên trong sáu vùng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch vùng và Ban hành Kế hoạch thực hiện quy hoạch. Đến nay, 13/13 tỉnh, thành phố thuộc Vùng đã được phê duyệt quy hoạch tỉnh theo Luật Quy hoạch và hoàn thành tổ chức công bố quy hoạch.

Đây cũng là vùng thứ hai sau vùng Trung du và miền núi phía Bắc được Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/2022 về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045. Cùng với việc ban hành quy hoạch và Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị là điều kiện thuận lợi để triển khai các chủ trương, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của Vùng cũng như các địa phương trong Vùng.

Qua 2 năm thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Chính phủ về phát triển Vùng ĐBSCL, mặc dù nền kinh tế trong nước phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, hậu quả từ đại dịch COVID-19 kéo dài; kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm, lạm phát ở mức cao; giá xăng dầu, nguyên vật liệu biến động mạnh; thiên tai, biến đổi khí hậu gây hậu quả rất nghiêm trọng, tác động lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và đời sống người dân nhưng tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Vùng có nhiều kết quả khả quan, nhiều chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội có chuyển biến tích cực, cụ thể là:

Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2023 là 6,37%, cao thứ 2/6 vùng trên cả nước; thu nhập bình quân đầu người tăng 1,6 lần so năm 2020, đạt 72,3 triệu đồng/người/năm. Một số công trình quan trọng, trọng điểm đã hoàn thành và đưa vào sử dụng như tuyến cao tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ; cầu Mỹ Thuận 2... Nhiều công trình, dự án quan trọng về lĩnh vực giao thông, thủy lợi, năng lượng, du lịch, hỗ trợ phát triển nông nghiệp đang trong quá trình thực hiện hoặc nghiên cứu, hoàn thiện thủ tục chuẩn bị đầu tư.

Các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao được quan tâm tổ chức nhiều hơn tạo không khí vui tươi cho nhân dân. Công tác an sinh xã hội được quan tâm. Quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Chủ quyền biên giới quốc gia được giữ vững.

Bên cạnh các kết quả đã đạt được, vùng ĐBSCL vẫn còn những tồn tại, hạn chế, khó khăn, thách thức, cụ thể như: Kinh tế của Vùng tăng trưởng khá nhưng còn chưa thực sự bền vững, quy mô còn rất khiêm tốn (chỉ chiếm 12% quy mô GDP cả nước), tăng trưởng kinh tế tại một số địa phương còn chậm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa đạt yêu cầu; Hạ tầng kinh tế - xã hội của vùng ĐBSCL vẫn còn yếu, trong đó có hạ tầng giao thông, nông nghiệp, văn hóa, giáo dục...; thiếu nguồn lực để đầu tư, năng suất lao động đạt thấp (136 triệu đồng/lao động, đứng thứ 5/6 vùng, chỉ cao hơn vùng Tây Nguyên); một số thỏa thuận liên kết còn mang tính hình thức, chưa thực chất; ứng dụng khoa học và công nghệ còn chậm; môi trường đầu tư kinh doanh của một số địa phương trong Vùng còn chưa thực sự hấp dẫn, chưa thuận lợi để thu hút đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài (vốn FDI đăng ký năm 2023 của vùng chỉ đạt 1,2 tỷ USD đứng thứ 5/6 vùng). Vùng được quy hoạch với mục tiêu an ninh lương thực, chủ yếu phát triển các sản phẩm lúa, thủy hải sản, trái cây, công nghiệp gắn với chế biến, Hạ tầng giao thông đường sắt, cảng biển không có, nguồn lực lao động chưa đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp. Chất lượng giáo dục và đào tạo của vùng tuy được nâng lên nhưng chưa đồng đều; Chất lượng nguồn nhân lực còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Nguồn lực cho các cơ sở khám chữa bệnh công lập còn hạn chế, thiếu trang thiết bị y tế. Quy hoạch vùng và quy hoạch ngành và quy hoạch tổng thể của các địa phương dựa trên lợi thế của từng vùng chưa đồng bộ. Hệ thống cơ sở dữ liệu vùng chưa được xây dựng đầy đủ...

Bên cạnh đó, vùng ĐBSCL hiện đang đối diện với nhiều thách thức. Trong đó, sự xuất hiện các công trình thủy điện ở thượng nguồn làm thay đổi dòng chảy, giảm đáng kể lượng phù sa, cát, suy giảm nguồn lợi thủy sản. Đây cũng là vùng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu và nước biển dâng gây ra nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, ảnh hưởng đến sinh kế và đời sống của người dân. Thời gian qua, các đợt xâm nhập mặn, triều cường, gây khó khăn cho Vùng và các địa phương, đặc biệt là về nguồn nước ngọt, nước cho sinh hoạt, sản xuất.

Để phát triển Vùng ĐBSCL cũng như nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác quy hoạch vùng trong thời gian tới, Chủ tịch hội đồng điều phối vùng có một số yêu cầu như sau:

Các Bộ, địa phương cần đề ra các giải pháp phù hợp với từng thời điểm để đón nhận “thời cơ mới, vận hội mới” nhằm phấn đấu đạt kết quả cao nhất về phát triển phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển các ngành, lĩnh vực nói riêng. Từng bước cụ thể hóa tư duy mới, tầm nhìn mới tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước giai đoạn 2021-2030 và các định hướng, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước. Từ đó mở ra các cơ hội phát triển mới và định hình các giá trị cho toàn vùng, phát huy được tiềm năng khác biệt, cơ hội nồi trội, lợi thế cạnh tranh sẵn có của các lĩnh vực, khu vực, địa phương và tháo gỡ, hóa giải những hạn chế, yếu kém, mâu thuẫn, thách thức, khó khăn.

Cần quán triệt nghiêm túc, thực hiện quyết liệt, hiệu quả, thực chất các nhiệm vụ, giải pháp đề ra nhằm phát triển nhanh và bền vững vùng ĐBSCL theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ; các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch do Thủ tướng Chính phủ ban hành, đặc biệt là Nghị quyết số 13- NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 78/NQ-CP của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững vùng ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu; Quyết định số 287/QĐ-TTg của Thủ tướng phê duyệt Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quyết định số 324/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình tổng thể phát triển nông nghiệp bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu vùng ĐBSCL…

Tập trung cơ cấu lại các ngành kinh tế theo hướng hiện đại, ưu tiên phát triển các ngành, lĩnh vực có thế mạnh như thủy sản, trái cây và lúa gạo gắn với các cụm ngành nông, lâm, thủy sản, các trung tâm đầu mối theo hướng sinh thái, bền vững, hiệu quả cao; đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, phát triển nông nghiệp hiệu quả dựa trên ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ. Phát triển công nghiệp xanh, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, nhất là điện gió, điện mặt trời gắn với bảo vệ rừng và bờ biển. Phát triển kinh tế biển, trong đó chú trọng phát triển du lịch, dịch vụ biển, kinh tế hàng hải, khai thác dầu khí và năng lượng tái tạo, nuôi trồng và khai thác hải sản xa bờ, các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, tái tạo nguồn lợi thủy sản và bảo vệ nguồn đa dạng sinh học biển.

Ưu tiên đầu tư, đẩy nhanh các dự án động lực, trọng điểm, quan trọng có tính lan tỏa lớn, có tính liên kết vùng, liên tỉnh để thúc đẩy phát triển KTXH của vùng như dự án xây dựng cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng giai đoạn 1, dự án đường bộ cao tốc Cao Lãnh - An Hữu giai đoạn 1, cao tốc Mỹ An - Cao Lãnh, dự án xây dựng đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông, dự án đầu tư xây dựng cảng biển Trần Đề, Hòn Khoai...Đối với các dự án cao tốc có vướng mắc về giải phóng mặt bằng, vật liệu cát đắp, đề nghị các bộ, ngành, UBND tỉnh có dự án đi qua tiếp tục tháo gỡ khó khăn vướng mắc liên quan đến giải phóng mặt bằng và thiếu vật liệu cát đắp nền để đảm bảo tiến độ cho các công trình này.

Tăng cường quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, nhất là đất đai và tài nguyên nước; bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với thiên tai và biến đổi khí hậu, coi đây là mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng trong xây dựng, ban hành các cơ chế, chính sách phát triển vùng. Đẩy mạnh đầu tư xây dựng hạ tầng thủy lợi, thoát lũ, trữ - chuyển nước ngọt, hệ thống quản lý và kiểm soát xâm nhập mặn nhằm hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp ứng phó với biến đổi khí hậu và tác động đến từ sự thay đổi nguồn nước thượng lưu sông Mê Kông. Xử lý sạt lở bờ sông và củng cố đê biển. Đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng các trung tâm đầu mối về nông nghiệp tại các tỉnh, nhất là trung tâm đầu mối tổng hợp tại Cần Thơ.

Bảo tồn và phát huy giá trị các di sản thiên nhiên và văn hóa - lịch sử, văn hóa sông nước, miệt vườn; văn hóa các dân tộc. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nguồn nhân lực số gắn với ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ. Thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, nhất là chính sách ưu đãi người có công, giảm nghèo, trợ giúp xã hội. Kết hợp phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, xây dựng nông thôn mới giảm nghèo bền vững, tạo việc làm, bảo đảm an sinh xã hội.

Thời gian tới, yêu cầu các Bộ, cơ quan, địa phương tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm như sau:

Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp thu đầy đủ, tối đa các ý kiến xác đáng tại hội nghị để kiến nghị các cấp có thẩm quyền sửa đổi quy định hiện hành hoặc ban hành các chính sách mới về các cơ chế, chính sách đặc thù với vùng để triển khai, thực hiện, đồng thời nghiên cứu, đánh giá các cơ chế đã được Quốc hội cho phép thí điểm đối với các địa phương trong vùng để có thể nhân rộng đối với toàn vùng; nghiên cứu tiêu chí, nguyên tắc xây dựng các dự án trọng điểm của Vùng và đề xuất đưa vào kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026 - 2030, báo cáo cấp có thẩm quyền đối với các dự án trọng điểm, đặc biệt là dự án đảm bảo an ninh nguồn nước, các dự án ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sớm hoàn thiện Đồ án tổng thể nhằm hạn chế ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, nắng nóng, hạn hán, xâm nhập mặn, ngăn chặn tình trạng sụt lún, sạt lở ở Đồng bằng sông Cửu Long theo chỉ đạo tại văn bản số 2850/VPCP-NN ngày 26 tháng 4 năm 2024, trình lãnh đạo Chính phủ trong quý III năm 2024.

Các Bộ, địa phương là thành viên Hội đồng điều phối vùng đồng bằng sông Cửu Long bám sát các nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng điều phối vùng và quy chế hoạt động của Hội đồng điều phối vùng, có trách nhiệm triển khai thực hiện các nhiệm vụ được phân công, hoàn thành nhiệm vụ với trách nhiệm cao nhất, báo cáo kết quả theo quy định.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cơ quan Thường trực của Hội đồng điều phối Vùng đôn đốc các Bộ, cơ quan, địa phương thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp nêu trên; kịp thời báo cáo, đề xuất Phó Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Hội đồng điều phối Vùng để xử lý các vấn đề phát sinh của Vùng.

Văn phòng Chính phủ phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư chuẩn bị họp Hội đồng điều phối vùng, kiểm điểm triển khai kết luận này vào tháng 12 năm 2024.

Thành Lợi -Nguồn Công văn số: 5328/UBND-TH; Thông báo số: 58/TB-HĐĐPĐBSCL

Tag:

File đính kèm