Nông nghiệp hàng hóa – hướng đi chiến lược của Tuyên Quang sau hợp nhất
Nhiều năm qua, cả tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang (cũ) đều xác định phát triển nông nghiệp hàng hóa là nhiệm vụ trọng tâm, thể hiện rõ trong các nghị quyết của Đảng bộ, chính sách của HĐND và cơ chế hỗ trợ của UBND tỉnh. Tại tỉnh Tuyên Quang (cũ), Nghị quyết số 16-NQ/TU ngày 22/5/2016 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển nông nghiệp hàng hóa giai đoạn 2016–2025 và Nghị quyết số 03/2021/NQ-HĐND của HĐND tỉnh ngày 16/7/2021 về chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản hàng hóa; sản phẩm OCOP và xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021–2025, đã tạo khung chính sách quan trọng cho ngành nông nghiệp.
Trong khi đó, tỉnh Hà Giang (cũ), Nghị quyết số 17-NQ/TU ngày 10/10/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển nông nghiệp đặc trưng hàng hóa chất lượng cao theo chuỗi giá trị giai đoạn 2021–2025 và Nghị quyết số 58/2020/NQ-HĐND của HĐND tỉnh ngày 09/12/2020 về chính sách đặc thù phát triển kinh tế vườn hộ và cây cam Sành, đã tạo nền tảng mạnh mẽ thúc đẩy nông nghiệp hàng hóa.

Các đồng chí: Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên, Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang Hầu A Lềnh cùng các đại biểu thưởng trà Shan tuyết tại “Hội chợ triển lãm hàng công nghiệp nông thôn tiêu biểu khu vực phía Bắc – Tuyên Quang năm 2025”.
Hệ thống chính sách đồng bộ đã thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi tư duy sản xuất từ tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa gắn với thị trường, hướng tới tiêu chuẩn an toàn, truy xuất nguồn gốc. Nhờ vậy, nhiều vùng chuyên canh lớn như vùng cam, vùng chè, vùng lúa chất lượng cao, vùng dược liệu, vùng chăn nuôi tập trung đã được hình thành và mở rộng, giúp giá trị nông sản tăng rõ rệt, thu nhập của người dân từng bước cải thiện.
Các nghị quyết, chính sách hỗ trợ của tỉnh đã thực sự trở thành đòn bẩy tài chính mạnh mẽ, không chỉ là sự hỗ trợ mà còn là "lửa thử vàng", giúp khu vực kinh tế hợp tác xã và kinh tế hộ vươn lên sản xuất hàng hóa chuyên nghiệp. Minh chứng rõ nét nhất là Hợp tác xã (HTX) Sơn Trà, xã Hồng Thái. Đơn vị này đã tận dụng tối đa nguồn lực từ Nghị quyết số 03/2021/NQ-HĐND của tỉnh Tuyên Quang (cũ) về chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất. Ông Đặng Ngọc Phố, Giám đốc HTX Sơn Trà khẳng định, nhờ Nghị quyết số 03, HTX đã được vay 400 triệu đồng cùng với hỗ trợ lãi suất trong 3 năm. Đây là nguồn vốn chiến lược kịp thời, giúp HTX mạnh dạn đầu tư có chiều sâu, mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng sản phẩm theo đúng định hướng của tỉnh. Từ sự đầu tư đúng hướng, HTX hiện có 4 sản phẩm chè đạt OCOP 4 sao và 1 sản phẩm gạo tẻ an toàn Hồng Thái đạt OCOP 3 sao.
Thành công của HTX Sơn Trà không chỉ là sự khẳng định về chất lượng nông sản Tuyên Quang mà còn là minh chứng hùng hồn cho hiệu quả của việc tiếp cận chính sách đúng trọng tâm, tạo động lực phát triển bền vững, nâng cao giá trị thương hiệu và cải thiện thu nhập thực tế cho người dân địa phương.

HTX Nông sản hữu cơ Bình Minh bày bán hàng trăm sản phẩm OCOP tại Vincom Plaza Tuyên Quang, mở rộng cơ hội quảng bá và tiêu thụ nông sản đặc trưng của tỉnh.
Theo ông Cao Hùng Dũng, Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh Tuyên Quang, sau hợp nhất toàn tỉnh có 509 sản phẩm OCOP đạt từ 3 sao trở lên, trong đó có 2 sản phẩm được công nhận 5 sao. Nhiều sản phẩm đã gây dựng được thương hiệu mạnh, tạo giá trị kinh tế cao như chè Ngọc Thúy, chè Shan tuyết, thịt trâu khô, mật ong rừng… Sự phát triển nhanh của khu vực HTX cùng mô hình kinh tế hộ liên kết với doanh nghiệp đã góp phần tạo sinh kế bền vững cho người dân, đặc biệt là khu vực vùng sâu, vùng xa.
Sau hợp nhất, Tuyên Quang đứng trước một không gian phát triển rộng lớn và đa dạng hơn bất kỳ giai đoạn nào trước đây. Sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng, hệ sinh thái sản xuất và sản phẩm đặc trưng giữa hai vùng Tuyên Quang và Hà Giang cũ không chỉ tạo nên lợi thế bổ trợ, mà còn đặt ra yêu cầu cấp thiết phải hợp lực chính sách, thống nhất định hướng, liên thông nguồn lực để phát triển nông nghiệp hàng hóa một cách bài bản, hiệu quả và bền vững.
Ông Dũng cho rằng việc hợp lực và thống nhất chính sách là điều kiện tiên quyết để xây dựng mô hình quản trị chung, đồng bộ cho toàn tỉnh. Điều này bao gồm việc thống nhất tiêu chuẩn chất lượng như VietGAP, GlobalGAP và đồng bộ các quy trình sản xuất từ khâu gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch đến bảo quản. Sự đồng đều trong chất lượng sản phẩm là yêu cầu bắt buộc nếu nông sản Tuyên Quang muốn tham gia các chuỗi phân phối hiện đại và vươn ra những thị trường xuất khẩu khó tính. Việc làm theo từng nhóm nhỏ, thiếu liên kết không chỉ làm giảm uy tín chung mà còn hạn chế cơ hội mở rộng thị trường.
Khi khung chính sách được thống nhất, tỉnh sẽ thuận lợi hơn trong quy hoạch vùng sản xuất tập trung, kết nối thế mạnh giữa vùng thấp và vùng núi cao. Nhờ đó, các vùng kinh tế nông nghiệp trọng điểm phát triển theo hướng chuyên nghiệp và bền vững. Các vùng sản xuất tiềm năng gồm: vùng Cam Sành liên hoàn kéo dài thời vụ và nâng cao chất lượng; vùng Chè đặc sản dựa trên lợi thế độ cao và chế biến hiện đại; vùng Dược liệu đặc hữu bảo đảm nguồn cung ổn định cho chế biến sâu; vùng Gỗ rừng trồng gắn với công nghiệp chế biến, hoàn thiện chuỗi giá trị lâm nghiệp... Việc mở rộng quy mô sản xuất và hình thành các vùng nguyên liệu liền mạch giúp doanh nghiệp chủ động hơn, giảm rủi ro thị trường và tăng năng lực cạnh tranh. Người dân cũng được hưởng lợi từ đầu ra ổn định, giá trị sản phẩm tăng, qua đó mạnh dạn chuyển đổi sang sản xuất an toàn, hữu cơ và thân thiện môi trường.
Hợp lực chính sách không chỉ là yêu cầu quản lý mà còn là động lực chiến lược mở rộng không gian phát triển nông nghiệp hàng hóa của tỉnh Tuyên Quang sau hợp nhất. Việc sớm ban hành khung chính sách chung sẽ tạo môi trường đầu tư minh bạch, ổn định, thúc đẩy ngành nông nghiệp chuyển mình mạnh mẽ, đóng góp vào phát triển bền vững và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.
Biên tập viên Cổng TTĐT tỉnh



