Phát triển thị trường công nghệ: Động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
(ĐCSVN)- Ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia phục vụ phát triển bền vững đất nước trong giai đoạn mới. Một trong những điểm nhấn quan trọng của Nghị quyết là mục tiêu phát triển mạnh mẽ thị trường khoa học và công nghệ (KH&CN), thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu và liên kết giữa viện/doanh nghiệp. Vậy đâu là vai trò của thị trường công nghệ? Chúng ta cần những chính sách đột phá nào để hiện thực hóa mục tiêu đó?
![]() |
| Ông Phạm Đức Nghiệm – Phó Cục trưởng Khởi nghiệp và Doanh nghiệp công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) (bên phải) |
Cổng thông tin điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam đã có cuộc trao đổi với ông Phạm Đức Nghiệm – Phó Cục trưởng Khởi nghiệp và Doanh nghiệp công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) để tìm hiểu rõ hơn về nội dung này.
PV: Thưa ông, Nghị quyết 57 đặt mục tiêu phát triển mạnh mẽ thị trường KH&CN. Ông đánh giá thế nào về vai trò của thị trường công nghệ trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế?
Ông Phạm Đức Nghiệm: Phát triển thị trường KH&CN là một định hướng quan trọng được phản ánh trong nhiều nghị quyết của Đảng và các chỉ đạo của Chính phủ. Đặc biệt là trong Nghị quyết Đại hội Đảng 13 đã đặt ra ba đột phá. Đột phá thứ nhất là về mặt thể chế, chính sách. Đột phá thứ hai là về hạ tầng. Và đột phá thứ ba là nguồn nhân lực chất lượng cao. Có thể thấy, Nghị quyết Đảng đã tập trung đột phá về thể chế, chính sách mà trọng tâm là chính sách về thị trường bất động sản và thị trường KH&CN. Như vậy có nghĩa rằng, thị trường KH&CN là một trọng tâm ưu tiên trong các chính sách quốc gia.
Nghị quyết 57 không chỉ kế thừa tinh thần đặt ra trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII mà lần này còn đặt lên ưu tiên rất cao cho vấn đề phát triển thị trường KH&CN. Điều này khiến những người làm về lĩnh vực KH&CN rất phấn khởi. Rõ ràng hành lang pháp lý, định hướng về mặt chính trị càng ngày càng rõ nét hơn, từ đó thúc đẩy thị trường KH&CN của Việt Nam phát triển một cách đồng bộ, hiện đại và hiệu quả hơn, tạo ra các điều kiện về mặt kinh tế xã hội, về mặt nền tảng, cả về mặt pháp lý cũng như là về mặt thực tiễn để cho KH&CN phát triển.
Thực tế cho thấy, phát triển thị trường KH&CN có ý nghĩa quan trọng trong việc kích cung, tạo cầu, thúc đẩy mua bán, chuyển giao nhanh tiến bộ kỹ thuật - hàng hóa công nghệ, tài sản trí tuệ, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả tăng trưởng kinh tế, giúp chuyển đổi mô hình kinh tế dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
![]() |
| Theo ông Phạm Đức Nghiệm một trong những điểm nghẽn lớn nhất của thị trường KH&CN hiện nay là sự thiếu hụt các tổ chức trung gian uy tín, có năng lực, có khả năng “kết nối” giữa bên cung và bên cầu |
PV Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu về phát triển thị trường KH&CN thời gian qua, tuy nhiên về tổng thể, thị trường KH&CN nước ta còn tồn tại một số rào cản, vướng mắc. Vậy đâu là rào cản lớn nhất ảnh hưởng đến sự phát triển mảng thị trường công nghệ tại Việt Nam hiện nay?
Ông Phạm Đức Nghiệm: Điểm khác biệt lớn nhất giữa thị trường công nghệ với các loại thị trường khác chính là hàng hoá lưu thông trên thị trường. Nếu như các loại thị trường khác thì người mua có thể tự ra quyết định mua hàng dựa trên hiểu biết phổ thông: tự đánh giá chất lượng, giá trị và mức độ phù hợp của hàng hoá. Trong khi đó hàng hoá công nghệ là một loại hàng hoá đặc biệt, thường được biểu hiện dưới dạng bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, giải pháp hợp lý hóa sản xuất, sáng chế hoặc các đối tượng sở hữu trí tuệ khác. Nghĩa là chúng có thể tồn tại ở dạng tri thức ẩn, không tồn tại ở dạng hữu hình, nên khó nhận biết rõ ràng, khó tiến hành đánh giá, định giá hơn so với hàng hóa tiêu dùng thông thường. Từ đó dẫn tới tình trạng bất cân xứng về thông tin, nhận thức, trình độ giữa bên tiếp nhận và bên chuyển giao – mua bán nên việc giao dịch mua bán hàng hoá công nghệ luôn cần đi kèm các chuyên gia tư vấn, các tổ chức trung gian có uy tín cung cấp các dịch vụ tư vấn có chất lượng cho thị trường. Bên cạnh đó, việc mua bán công nghệ cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, khi thông tin công nghệ có thể bị rò rỉ hoặc có thể bị sao chép, giải mã, điều này dẫn đến bên bán không bán được với giá mong đợi, nhưng nếu không bán thì có thể dẫn tới công nghệ bị lỗi thời nhanh chóng.
Thực tế cho thấy, một trong những điểm nghẽn lớn nhất của thị trường KH&CN hiện nay là sự thiếu hụt các tổ chức trung gian uy tín, có năng lực, có khả năng “kết nối” giữa bên cung và bên cầu. Do đó, vai trò của tổ chức trung gian không chỉ là cầu nối, mà còn là người “giải mã” công nghệ, giúp quá trình chuyển giao diễn ra suôn sẻ và hiệu quả hơn.
PV: Có thể thấy, việc chuyển giao công nghệ giữa viện/trường với doanh nghiệp, hoặc giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước hiện còn hạn chế. Đâu là nguyên nhân của vấn đề này, thưa ông?
Ông Phạm Đức Nghiệm: Quá trình chuyển giao công nghệ giữa viện/trường và doanh nghiệp, cũng như giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài, hiện vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Một trong những rào cản lớn là chất lượng nguồn cung công nghệ còn thấp. Phần lớn các kết quả nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở cấp độ thử nghiệm, sản phẩm mẫu (prototype) quy mô phòng thí nghiệm, chưa đạt đến mức độ hoàn thiện để có thể thương mại hóa. Điều này khiến doanh nghiệp gặp khó khăn khi tiếp cận và ứng dụng công nghệ vào sản xuất – kinh doanh.
Có thể kể ra ba thách thức lớn đang cản trở khả năng “hấp thụ” và ứng dụng công nghệ trong doanh nghiệp Việt. Một là, hiện nay, nhiều doanh nghiệp trong nước vẫn tỏ ra dè dặt khi quyết định đầu tư vào các kết quả nghiên cứu trong nước. Thay vì mua các sản phẩm nghiên cứu cần hoàn thiện thêm, họ có xu hướng lựa chọn các dây chuyền, thiết bị công nghệ sẵn có, có thể "mua về là dùng ngay", nhằm giảm thiểu rủi ro và tiết kiệm thời gian.
Hai là, khả năng tiếp cận công nghệ nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam cũng còn nhiều hạn chế. Không chỉ thiếu thông tin hay năng lực thẩm định công nghệ, mà vấn đề lớn hơn là thiếu nguồn lực tài chính. Các công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ cao và công nghệ xanh, thường có giá trị chuyển giao lớn, đòi hỏi khoản đầu tư ban đầu rất cao – điều mà nhiều doanh nghiệp trong nước chưa thể đáp ứng.
Ba là, ngay cả khi vượt qua được rào cản tài chính, nhiều doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn trong việc làm chủ công nghệ do thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao. Việc vận hành, tích hợp và phát triển công nghệ mới không chỉ đòi hỏi kiến thức chuyên sâu mà còn cần đội ngũ kỹ thuật đủ năng lực – điều mà không phải doanh nghiệp nào cũng sẵn sàng.
![]() |
| Ông Phạm Đức Nghiệm cho rằng thị trường công nghệ của Việt Nam phát triển muộn hơn so với nhiều thị trường khác, do đó vẫn còn tồn tại không ít bất cập cả về thể chế chính sách |
PV: Một vấn đề nữa bạn đọc rất quan tâm đó là việc mua bán công nghệ được coi là xương sống của thị trường KH&CN. Nhưng vì sao hoạt động mua bán công nghệ tại Việt Nam còn tương đối trầm lắng so với tiềm năng của thị trường, thưa ông?
Ông Phạm Đức Nghiệm: Thị trường công nghệ của Việt Nam phát triển muộn hơn so với nhiều thị trường khác, do đó vẫn còn tồn tại không ít bất cập cả về thể chế chính sách. Trong thời gian qua, Nhà nước đã có nhiều nỗ lực hoàn thiện khung pháp lý nhằm thúc đẩy thị trường công nghệ phát triển. Theo thống kê, đã có tới 6 luật, 9 nghị định và 12 thông tư được ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung các nội dung liên quan đến lĩnh vực này. Tuy nhiên, thực tế cho thấy hệ thống chính sách vẫn còn thiếu tính đồng bộ, nghĩa là bên cạnh các quy định chuyên ngành được cập nhật, vẫn tồn tại nhiều quy định pháp luật khác gây cản trở thị trường công nghệ phát triển.
Chẳng hạn, Luật Doanh nghiệp cho phép nhà khoa học được dùng tài sản trí tuệ, bằng sáng chế để góp vốn thành lập doanh nghiệp. Tuy nhiên, do thiếu hướng dẫn cụ thể trong các văn bản dưới luật, quy định này gần như không thể triển khai trong thực tế. Nhiều nhà khoa học mong muốn đưa kết quả nghiên cứu ứng dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh đã gặp khó khăn do không có cơ sở pháp lý rõ ràng để thực hiện.
Tương tự, Luật Đầu tư hiện nay cũng chưa có quy định cụ thể, đối với các nhà đầu tư khi rót vốn vào kết quả nghiên cứu, từ kết quả đó tiếp tục được phát triển, mở rộng thành nhiều sản phẩm hoặc bằng sáng chế mới. Câu hỏi đặt ra việc phát triển các tài sản trí tuệ đó sẽ được phân chia như thế nào? Thoái vốn ra sao thì trong quy định của pháp luật vẫn còn chưa rõ ràng. Dẫn đến câu chuyện, nhiều vướng mắc trong quá trình chuyển giao công nghệ và thương mại hóa kết quả nghiên cứu, đặc biệt đối với mô hình phát triển doanh nghiệp khoa học công nghệ cả trong (spin-off) và ngoài các cơ sở nghiên cứu (spin-out). Đây là những vấn đề cấp thiết cần được tháo gỡ để tạo điều kiện cho đổi mới sáng tạo phát triển bền vững.
PV: Nghị quyết 57 đã đưa ra giải pháp tổng thể gì để thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học, thưa ông?
Ông Phạm Đức Nghiệm: Rõ ràng là chúng ta nhìn vào các cái thống kê của cả Việt Nam cũng như là thống kê của quốc tế, đặc biệt là trong báo cáo Global Index Inovation được công bố hàng năm thì thấy rằng, chỉ số năng lực sáng tạo cá nhân của Việt Nam luôn đứng ở thứ hạng thứ 8 cho đến thứ 10 của thế giới. Có nghĩa là năng lực sáng tạo của người Việt là rất là xuất sắc. Nhưng chỉ số nằm ở nhóm thấp nhất chính là chỉ số hợp tác giữa viện/trường – doanh nghiệp. Có nghĩa là sự gắn kết giữa khối mà tạo ra tri thức, tạo ra công nghệ với khối mà “hấp thụ” công nghệ chính là các doanh nghiệp công nghiệp còn rất là xa nhau. Chính vì thế, cần phải có những cái biện pháp, chính sách để làm sao thu hẹp khoảng cách giữa viện, trường và doanh nghiệp để tạo sự gắn kết hơn, đồng bộ hơn.
Nghị quyết 57 đã đưa ra nhiều giải pháp, trong đó nổi bật là định hướng đầu tư mạnh vào hạ tầng kỹ thuật và lấy doanh nghiệp làm trung tâm của hệ sinh thái đổi mới. Một điểm nhấn quan trọng là định hướng chuyển trục hoạt động của các viện nghiên cứu ứng dụng, trường đại học theo hướng gắn kết chặt chẽ hơn với doanh nghiệp. Theo đó, các viện, trường được khuyến khích hình thành lực lượng doanh nghiệp "spin-off" dựa trên việc khai thác tài sản trí tuệ, sáng chế hiện có. Mô hình này đã chứng minh hiệu quả tại nhiều quốc gia, góp phần rút ngắn khoảng cách giữa nghiên cứu và thương mại hóa, đưa kết quả nghiên cứu ra thị trường nhanh chóng và hiệu quả hơn. Song song với đó, Nghị quyết cũng nhấn mạnh việc phát triển hạ tầng kỹ thuật phục vụ chuyển giao công nghệ như các sàn giao dịch công nghệ, trung tâm môi giới, xúc tiến công nghệ, nhằm tạo động lực lan tỏa và hỗ trợ hoạt động đổi mới sáng tạo trên diện rộng.
Một trong những nguyên nhân cản trở sự phát triển của thị trường công nghệ trong nước là thiếu điều kiện pháp lý và cơ chế hỗ trợ đồng bộ. Nhận diện rõ thực trạng này, Nghị quyết 57 ra đời đã tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi, mở đường cho việc hoàn thiện và đồng bộ hóa các chính sách, qua đó thúc đẩy sự phát triển của lực lượng trung gian trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Đặc biệt, chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học, việc khuyến khích hình thành và phát triển các sàn giao dịch công nghệ được xem là bước đi chiến lược, tạo tiền đề quan trọng để thị trường công nghệ Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn trong thời gian tới. Đây cũng là động lực mới góp phần thúc đẩy các hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đưa kết quả nghiên cứu đến gần hơn với thực tiễn và doanh nghiệp.
![]() |
| Trên cơ sở triển khai Nghị quyết 57, việc tháo gỡ các rào cản hiện hữu và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp tiếp cận công nghệ đang trở thành yêu cầu cấp thiết. Ảnh minh họa: qdnd.vn |
PV: Theo quan điểm của ông, Việt Nam cần có những chính sách đột phá gì để hoạt động trên ngày càng phát triển?
Ông Phạm Đức Nghiệm: Trên cơ sở triển khai Nghị quyết 57, việc tháo gỡ các rào cản hiện hữu và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp tiếp cận công nghệ đang trở thành yêu cầu cấp thiết. Cần có các biện pháp và chính sách đồng bộ nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với thông tin công nghệ, kết quả nghiên cứu, cũng như tăng cường nguồn lực tài chính cho hoạt động đổi mới sáng tạo.
Đặc biệt, chính sách tín dụng cần được điều chỉnh theo hướng ưu đãi hơn cho doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ cao. Thực tế nhiều nước trên thế giới đã áp dụng mức lãi suất tín dụng ưu đãi tùy theo cấp độ công nghệ, giả dụ nếu lãi suất vay thương mại thông thường là 8%, thì các dự án công nghệ cao chỉ chịu mức 5%, còn với công nghệ cao kết hợp yếu tố xanh, lãi suất có thể giảm xuống chỉ còn 3%. Đây là một điểm rất quan trọng mà chúng ta đang còn khuyết thiếu trong hệ thống chính sách.
Do vậy, trong thời gian tới, Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện các chính sách, đặc biệt chính sách tín dụng theo hướng ưu đãi hơn. Việc cải tiến cơ chế tài chính không chỉ hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua rào cản chi phí đầu tư ban đầu mà còn góp phần thúc đẩy quá trình đổi mới sáng tạo, phát triển thị trường công nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế.
Sau khi có Nghị quyết 57, Nghị quyết 193 của Quốc hội và Nghị định 88 của Chính phủ được ban hành, nhiều vướng mắc pháp lý liên quan đến thương mại hóa kết quả nghiên cứu và hình thành doanh nghiệp khoa học công nghệ đã bước đầu được tháo gỡ. Những chính sách này đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi hơn, mở ra điều kiện để các hoạt động chuyển giao công nghệ, thành lập doanh nghiệp spin-off diễn ra dễ dàng và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, để phát huy tối đa hiệu quả, vẫn cần tiếp tục rà soát và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng đồng bộ và liên thông giữa các ngành, lĩnh vực.
Từ thực tiễn triển khai thương mại hóa kết quả nghiên cứu cho thấy, bên cạnh khung pháp lý, yếu tố con người đóng vai trò then chốt. Hiện nay, năng lực và kỹ năng của đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng viên trong việc tiếp cận thị trường và hiểu biết về thương mại hóa công nghệ còn nhiều hạn chế. Do đó, việc bồi dưỡng, đào tạo chuẩn hóa kiến thức về thị trường, sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ cho lực lượng này cần được đặc biệt quan tâm trong thời gian tới.
Song song với đó, cần xây dựng và phát triển đội ngũ môi giới, tư vấn công nghệ chuyên nghiệp, đóng vai trò kết nối hiệu quả giữa nhà nghiên cứu, doanh nghiệp và nhà đầu tư. Đặc biệt, việc hình thành các sàn giao dịch công nghệ cấp quốc gia sẽ là giải pháp quan trọng, đóng vai trò như “bà đỡ” trung gian, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình gặp gỡ giữa bên cung và bên cầu diễn ra thuận lợi hơn.
![]() |
| Ông Phạm Đức Nghiệm cho hay điểm sáng đáng ghi nhận trong quá trình triển khai Nghị quyết 57 là chính sách đã bắt đầu chú trọng hơn đến việc lắng nghe phản hồi từ thực tiễn |
PV: Hiện nay trên Cổng thông tin điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam đã tích hợp Hệ thống giám sát, đánh giá việc triển khai Nghị quyết 57 và Hệ thống tiếp nhận phản ánh, góp ý của người dân và doanh nghiệp. Ông đánh giá như thế nào về ý nghĩa và vai trò của những công cụ này trong việc thúc đẩy thực thi hiệu quả Nghị quyết ?
Ông Phạm Đức Nghiệm: Một yếu tố then chốt trong xây dựng và thực thi chính sách hiệu quả là phải dựa trên bằng chứng thực tiễn. Việc thiết lập các công cụ kết nối, tương tác giữa cơ quan hoạch định chính sách, đơn vị thực thi và đối tượng thụ hưởng – bao gồm người dân, cộng đồng doanh nghiệp – sẽ giúp tạo nên một chu trình chính sách phản hồi linh hoạt, kịp thời và thực chất.
Điểm sáng đáng ghi nhận trong quá trình triển khai Nghị quyết 57 là chính sách đã bắt đầu chú trọng hơn đến việc lắng nghe phản hồi từ thực tiễn. Cách tiếp cận này không chỉ thể hiện tính khoa học trong xây dựng pháp lý mà còn góp phần nâng cao chất lượng điều hành, đảm bảo các chính sách đi đúng hướng, bám sát nhu cầu của xã hội. Đây là bước tiến quan trọng trong nỗ lực hoàn thiện thể chế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển thị trường công nghệ một cách bền vững.
Trong bối cảnh hiện nay, chính sách không còn là yếu tố bất biến mà cần liên tục được đổi mới, điều chỉnh và sáng tạo để phù hợp với thực tiễn phát triển nhanh chóng của xã hội. Cổng thông tin 57 không chỉ là công cụ truyền tải chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước, mà còn đóng vai trò như một kênh kết nối quan trọng giữa nhà hoạch định chính sách với người dân, cộng đồng doanh nghiệp và giới khoa học.
Chính nhờ cơ chế tiếp nhận phản hồi đa chiều này, quá trình xây dựng và điều chỉnh chính sách trở nên linh hoạt hơn, sát với thực tiễn hơn và mang lại hiệu quả ứng dụng cao hơn. Việc lắng nghe, thấu hiểu nhu cầu từ thực tiễn không chỉ giúp chính sách phát huy tác dụng, mà còn tạo động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
Một điểm rất quan trọng mà tôi muốn chia sẻ là hiện nay, Việt Nam vẫn thiếu các công cụ chính sách hiệu quả để đo lường và đánh giá toàn diện “bức tranh công nghệ” của doanh nghiệp. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia phát triển, việc theo dõi, thống kê và đánh giá năng lực công nghệ của doanh nghiệp là một phần không thể thiếu trong quá trình hoạch định chính sách. Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa xây dựng được hệ thống thông tin đầy đủ và chính xác về năng lực công nghệ của doanh nghiệp.
Một thực tế đáng lưu ý là không chỉ thiếu thông tin về năng lực công nghệ của doanh nghiệp trong nước, Việt Nam hiện cũng chưa kiểm soát rõ ràng công nghệ mà các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mang vào. Tình trạng “lơ mơ” trong việc nắm bắt loại công nghệ, mức độ hiện đại hay khả năng lan tỏa của các dòng công nghệ FDI đang khiến cơ quan quản lý gặp khó khăn trong việc hoạch định chính sách và định hướng phát triển thị trường KH&CN. Thiếu hụt này dẫn đến thực trạng nhiều chính sách chưa thực sự dựa trên bằng chứng cụ thể, hoặc chưa phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực tiễn của doanh nghiệp.
Chính vì vậy, việc củng cố và tăng cường hoạt động thống kê, xác định thông tin công nghệ trong cộng đồng doanh nghiệp là hết sức cấp thiết. Theo kinh nghiệm quốc tế, nếu bổ sung nội dung này vào Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp — cụ thể là yêu cầu doanh nghiệp khai báo mức độ đầu tư và sở hữu công nghệ — sẽ giúp hình thành một cơ sở dữ liệu chuẩn hóa, phản ánh rõ thực trạng công nghệ trong khu vực sản xuất – kinh doanh. Đây là bước đi quan trọng để từ đó xây dựng các chính sách đổi mới sáng tạo phù hợp, hiệu quả và tiệm cận với thông lệ quốc tế.
Hi vọng trong thời gian tới, Việt Nam sẽ có những chính sách mang tính đột phá nhằm xây dựng và hoàn thiện hệ thống dữ liệu về công nghệ, tạo nền tảng vững chắc cho việc hoạch định và triển khai các chiến lược phát triển. Khi đó, không chỉ cộng đồng doanh nghiệp, các hiệp hội ngành nghề mà cả Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước sẽ có trong tay những bằng chứng rõ ràng, xác thực để kiến tạo các chính sách thực tiễn, hiệu quả, mang tính bứt phá, để thúc đẩy KH&CN thực sự trở thành động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế.
PV: Xin trân trọng cảm ơn ông!








