Sign In

Hội nghị Hội đồng điều phối vùng Trung du và miền núi phía Bắc lần thứ hai: Quy hoạch vùng Trung du và miền núi phía Bắc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050

19:57 01/12/2023
(MPI) - Chiều ngày 01/12/2023, tại Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã diễn ra Hội nghị Hội đồng điều phối vùng Trung du và miền núi phía Bắc (TDMNPB) lần thứ hai với chủ đề Quy hoạch vùng TDMNPB thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng điều phối Vùng chủ trì Hội nghị.

Toàn cảnh Hội nghị. Nguồn: MPI

Hội nghị có sự tham dự của lãnh đạo 14 địa phương trong Vùng; đại diện lãnh đạo các bộ, ngành có liên quan; các chuyên gia, nhà khoa học.

Theo dự thảo nội dung quy hoạch vùng TDMNPB được trình bày tại Hội nghị, đây là địa bàn đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, là “phên dậu”, cửa ngõ phía Bắc của quốc gia và có vai trò quyết định đối với nguồn năng lượng, nguồn nước và môi trường sinh thái của cả vùng Bắc Bộ. Các địa phương trong vùng đã nhận thức ngày càng rõ hơn về vai trò, vị trí, tầm quan trọng và khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế của vùng TDMNPB; đặc biệt xác định tầm quan trọng về hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông để tập trung quan tâm đầu tư, giúp cải thiện đáng kể sự kết nối giữa các tỉnh trong vùng TDMNPB và giữa vùng TDMNPB với cả nước và quốc tế.

Vùng TDMNPB được đánh giá có nhiều tiềm năng phát triển khi đây là vùng sở hữu tài nguyên khoáng sản bậc nhất nước ta với diện tích rừng và đất lâm nghiệp của Vùng là hơn 6 triệu ha, lớn nhất cả nước. Diện tích đất có rừng hơn 5 triệu ha, chiếm khoảng 37% diện tích đất có rừng của cả nước.

Bên cạnh đó, đây là hệ sinh thái đa dạng về thành phần loài, phong phú về số lượng và tạo ra sự đa dạng của các phân vùng sinh thái. Nhiệt độ trung bình vùng khoảng từ 18 - 22 độ C thuận lợi cho phát triển du lịch…

Tuy nhiên, đây là Vùng có địa hình kết nối chia cắt, kết nối giao thông kém. Thời gian di chuyển nội dùng và tới các trung tâm kinh tế còn lớn, liên kết với các cửa khẩu còn khó khăn. Trong đó, thời gian di chuyển trung bình đến Hà Nội là trên 6 giờ, chậm nhất ở khu vực phía Tây Bắc (Điện Biên, Sơn La, Lai Châu), tốc độ di chuyển tối đa theo hướng Đông Tây chỉ 30 - 40km/h.

Ngoài ra, sự đa dạng về văn hóa Vùng TDMNPB với 31 dân tộc với sự khác biệt về ngôn ngữ và lối sống đòi hỏi một mô hình phát triển phù hợp. Chất lượng lao động thấp và chênh lệnh giữa các địa phương; tăng trưởng kinh tế không đều, nhiều tỉnh tăng trưởng giảm…

Định hướng cấu trúc tổng thể vùng gồm: 4 tiểu vùng, 4 hành lang kinh tế chính, 3 vành đai và 1 vùng động lực. Cụ thể, mỗi tiểu vùng có 01 hành lang kinh tế chính, 01 cực tăng trưởng phía Nam, thuộc vành đai quanh Thủ đô; 01 trọng điểm phát triển ở biên giới thuộc vành đai an sinh, an ninh - quốc phòng. Vùng động lực gồm: Bắc Giang - Thái Nguyên - Phú Thọ. Các cực tăng trưởng gồm Tiểu vùng 1 (Hòa Bình, Sơn La); Tiểu vùng 2 (Phú Thọ, Lào Cai); (Tiểu vùng 3: Thái Nguyên); Tiểu vùng 4 (Bắc Giang, Lạng Sơn).

Tiểu vùng 1: là khu vực tăng trưởng xanh gắn với nông nghiệp bền vững, du lịch sinh thái và năng lượng sạch với Hòa Bình là cực tăng trưởng và Sơn La là trung tâm chế biến nông sản, dịch vụ xã hội

Tiểu vùng 2: là vùng du lịch tầm cỡ, đầu mói giao thương kinh tế, văn hóa với Vân Nam và các tỉnh phía Tây Nam Trung Quốc với 2 cực tăng trưởng ở Lào Cai và Phu Thọ.

Tiểu vùng 3: Là nơi có trung tâm công nghiệp, giáo dục và y tế của cả vùng, vừa là nơi gìn giữ lịch sử, cội nguồn với tiềm năng phát triển du lịch về nguồn.

Tiểu vùng 4: Là nơi có tăng trưởng lớn, trung tâm công nghiệp của vùng, vừa có cửa khẩu quốc tế quan trọng bậc nhất với vai trò kết nối giao thương kinh tế, văn hóa với Quảng Tây và các tỉnh phía Nam Trung Quốc.

Về định hướng quy hoạch phát triển hạ tầng, Dự thảo đưa ra đề xuất trước năm 2030 là ưu tiên cho các tốc Bắc - Nam, mở thêm lối ra biển. Trong đó, tiếp tục nâng cao các tuyến đường kết nối cửa khẩu, các liên kết hướng tâm. Đầu tư cao tốc Bắc - Nam đoạn nối Hòa Bình - Thanh Hóa; tuyến Quốc lộ 16 kết nối với Thanh Hóa, Bắc Trung Bộ. Ưu tiên nâng cấp, kết nối đường Vành đai 1 (QL.4) và đường Vành đai 3 (QL.37) để đẩy nhanh tốc độ kết nối Đông Tây. Nâng cấp và đầu tư các sân bay Điện Biên, Lai Châu, Nà Sản và Sa Pa. Tuyến đường tốc độ cao (80km/h) kết nối Hòa Bình đến Ninh Bình.

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đề nghị các đại biểu tập trung cho ý kiến vào các vấn đề lớn của quy hoạch vùng TDMNPB, đặc biệt là các điểm nghẽn như kiên kết nội vùng, liên kết tỉnh, chênh lệch giàu nghèo giữa các thành phần, chênh lệch phát triển giữa các địa phương, chất lượng nguồn nhân lực. Bên cạnh đó là vấn đề liên quan đến đất đai, diện tích nhiều; phát triển rừng; vấn đề về nước, không những đảm bảo cho sinh hoạt, sản xuất mà còn phải đảm bảo an ninh nguồn nước; vấn đề văn hóa, quốc phòng an ninh; liên kết tỉnh, liên kết, nội vùng; giữa Vùng với các tỉnh khác.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, nếu tăng cường kết nối với thị trường Trung Quốc sẽ giúp phát triển cả vùng cũng như cho các địa phương ở miền xuôi. Cần nhìn rộng ra để gắn kết với thị trường Trung Quốc, mới có thể bứt phá, đột phá; Về đề xuất đầu tư đường cao tốc nối Hòa Bình - Thanh Hóa, đây là đề xuất đáng lưu tâm bởi đây là giải pháp để kết nối vùng này với cảng biển Nghi Sơn. Khi hình thành các tuyến đường sẽ liên kết nhanh nhất các tỉnh vùng núi xa xôi với vùng ven biển, các sân bay, cảng và các cửa khẩu quan trọng.

Tham gia ý kiến, các đại biểu đánh giá cao Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đơn vị tư vấn đã lắng nghe ý kiến của các Bộ, ngành, chuyên gia, nhà khoa học, đặc biệt là các địa phương trong Vùng với tư cách là cấp chịu sự tác động trực tiếp và triển khai thực hiện.

Quy hoạch vùng TDMNPB được lập trong bối cảnh Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 10/02/2022 về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 96/NQ-CP ngày 01/8/2022 về Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị; Quốc hội thông qua Quy hoạch tổng thể quốc gia và Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Đa số các ý kiến cho rằng, Quy hoạch đã làm rõ phương hướng phát triển của mỗi hành lang, vành đai, các cực tăng trưởng đã được xác định theo Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị và bổ sung hai cực tăng trưởng cũng như cụ thể hóa định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực có lợi thế của vùng. Với cách tiếp cận phù hợp và khoa học, quy hoạch vùng TDMNPB đã phân tích các vấn đề một cách sâu sắc, cụ thể hóa trên cơ sở các quy hoạch cấp trên và Nghị quyết, đồng thời nhận diện các chiến lược lớn cấp vùng, tích hợp các quy hoạch cấp tỉnh.

Góp ý về quy hoạch, lãnh đạo các tỉnh Thái Nguyên; Yên Bái; Tuyên Quang; Điện Biên; Phú Thọ; Bắc Giang đã cho ý kiến cụ thể đối với dự thảo quy hoạch Vùng, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến vấn đề phát triển hạ tầng, giải quyết các điểm nghẽn thì vấn đề hạ tầng là vấn đề rất lớn; đề xuất, nếu tổ chức triển khai thực hiện khi phê duyệt cần cân nhắc tuyến đường sắt, đường bộ, hệ thống hạ tầng, nhất là điện.

Bí thư tỉnh ủy tỉnh Cao Bằng Trần Hồng Minh cho biết, tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hoạch thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, là cơ sở để tỉnh triển khai các nội dung phát triển văn hóa, kinh tế - xã hội. Đồng thời nhấn mạnh đến các nội dung về quy hoạch vùng TDMNPB liên quan đến quy hoạch, phát triển du lịch theo chuỗi; về khu kinh tế cửa khẩu, khu kinh tế xuyên biên giới; quy hoạch sân bay; các trục cao tốc theo hành lang dọc và theo trục ngang.

Ông Hồ Tiến Thiệu, Chủ tịch UBND tỉnh Lạng Sơn nhấn mạnh, quy hoạch cần xác định được nội dung nhiệm vụ, mục tiêu cần ưu tiên đầu tư để khắc phục được khó khăn hiện nay; mạnh dạn đưa vào danh mục ưu tiên đầu tư. Đồng thời, cần xác định rõ là vùng có lợi thế nhiều về phát triển lâm nghiệp, không chỉ đơn thuần là nâng cao đời sống người dân mà còn ứng phó với biến đổi khí hậu, đảm bảo quốc phòng an ninh. Do vậy, cần xác định phát triển lâm nghiệp Vùng này rất quan trọng và đây cũng là nội dung thực hiện Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị là phát triển xanh, bền vững, toàn diện. Từ đó, cần có những cơ chế, chính sách và giải pháp phù hợp để phát triển lâm nghiệp.

Vấn đề thương mại và phát triển kinh tế cửa khẩu, ông Hồ Tiến Thiệu cũng cho rằng, đây là lợi thế của Vùng, không chỉ phục vụ cho Vùng mà còn với cả nước và thậm chí rộng hơn là với khu vực ASEAN. Do vậy, quy hoạch cần được thể hiện rõ, chi tiết hơn về nội dung này.

Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang Lê Ánh Dương bày tỏ nhất trí với các ý kiến và một số nội dung quy hoạch và cho rằng, quy hoạch Vùng cần khắc phục được vấn đề quan trọng nhất hiện nay là kết nối giao thông, trong đó có giao thông đường sắt, ga liên vận quốc tế để hình thành trung tâm logistics; cùng với đó, hàng không cũng rất quan trọng và nghiên cứu đưa vào quy hoạch; cần bổ sung thêm hệ thống cửa khẩu, kinh tế cửa khẩu.

Theo ông Lê Ánh Dương, Vùng này có tỷ lệ lao động phổ thông nhiều, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn hạn chế. Do vậy, quy hoạch cần chú trọng đến giáo dục nghề nghiệp, mở rộng đào tạo tại các địa phương để đáp ứng năng lực đạo tạo nghề. Cùng với đó quan tâm về quy hoạch điện; kết nối giữa vùng với các vùng khác.

Bản Quy hoạch vùng này có ý nghĩa quan trọng, giúp “mở đường”, chủ động kiến tạo phát triển, với tư duy mới, tầm nhìn mới để tạo ra cơ hội mới, động lực phát triển mới và giá trị mới cho vùng; đặc biệt quy hoạch đã chú trọng giải quyết các vấn đề liên ngành, liên vùng, liên tỉnh; tái tổ chức không gian phát triển vùng và khai thác, phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển vùng nhanh, bền vững. Quy hoạch vùng cũng là căn cứ quan trọng để đề xuất kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026-2030, đặc biệt là các dự án lớn, có tính liên vùng.

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng phát biểu tại Hội nghị. Ảnh: MPI

Phát biểu kết luận Hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng ghi nhận và đánh giá cao ý kiến của các tổ chức, cá nhân tham gia vào quá trình nghiên cứu, xây dựng quy hoạch vùng TDMNPB; thể hiện được rõ nét quan điểm, mục tiêu, phương hướng phát triển các ngành, lĩnh vực chủ yếu của Vùng; cụ thể hóa định hướng của Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị đề ra. Đồng thời, cảm ơn, đánh giá cao ý kiến quý báu, thẳng thắn, tâm huyết và trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương, chuyên gia, nhà khoa học với nhiều đề xuất sát thực tiễn, có giá trị. Với tinh thần cầu thị, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ nghiên cứu, tiếp thu, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định.

Nhấn mạnh đến các nội dung cần tập trung nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nêu rõ, cần bổ sung các mô hình kinh tế mới như kinh tế tuần hoàn; Dự thảo quy hoạch đã đề xuất phân vùng thành các tiểu vùng để tạo các khu vực liên kết chặt chẽ, chia sẻ hạ tầng chung hiệu quả cả về hạ tầng kỹ thuật cũng như xã hội; thống nhất 04 tiểu vùng, 06 hành lang kinh tế (04 hành lang chính và 02 hành lang phụ), 03 vành đai và hệ thống các cực tăng trưởng, các trung tâm gắn với các tiểu vùng cũng như các cực tăng trưởng.

Về phương hướng phát triển hành lang chính và hành lang hỗ trợ, nghiên cứu làm rõ thêm các trục dọc hướng tâm về Hà Nội, gắn các cửa khẩu quốc tế trong Vùng, vừa phục vụ xuất nhập khẩu, tạo việc làm và làm bệ đỡ cho các tỉnh miền xuôi.  Về các cực tăng trưởng, cần làm rõ hơn luận cứ.

Quy hoạch cần tập trung ưu tiên phát triển các tuyến cao tốc “xương sống” của mỗi tiểu vùng; hình thành hệ thống đồng bộ kết nối theo trục dọc và từ đó hình thành theo trục ngang.

Về chiến lược vùng để bảo tồn, phát huy sự đa dạng thì văn hóa và phát triển nguồn nhân lực cần được tập trung ưu tiên.

Về nông nghiệp, đây là trụ cột phát triển kinh tế quan trọng của vùng, cần được phát triển theo hướng bền vững hơn; tránh theo xu hướng tối đa hóa sản lượng, quan tâm hơn đến chất lượng, hiệu quả; cơ cấu ngành nông nghiệp nên tránh nặng về thâm canh lúa với năng suất tuy cao nhưng chi phí lớn và giá trị gia tăng thấp; đảm bảo tài nguyên đất và nước không bị khai thác cường độ cao gây suy thoái và ô nhiễm. Khuyến khích sản xuất nông nghiệp tập trung và theo hướng hàng hóa đồng thời kết hợp với công nghiệp chế biến tại những khu vực có quỹ đất canh tác lớn và kết nối giao thông thuận lợi để tạo giá trị kinh tế lớn; khuyến khích nông nghiệp truyền thống, đặc sản, hữu cơ có giá trị cao ở những khu vực có quỹ đất hạn chế và đặc trưng văn hóa nổi bật để có thể kết hợp với du lịch trải nghiệm và hướng đến thị trường tiêu dùng cao cấp đồng thời đảm bảo an ninh lương thực tại chỗ trước các biến động của kinh tế và bảo vệ hệ sinh thái địa phương. Phát triển các ngành dịch vụ và thủ công nghiệp gắn với phát huy và bảo tồn đặc trưng của các dân tộc, trong đó có liên kết với các địa phương, nội vùng.

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cũng nhấn mạnh đến các vấn đề về phát triển kinh tế biên mậu, cửa khẩu, kinh tế xuyên biên giới; về phòng chống thiên tai, an ninh nguồn nước; nguồn điện, trong đó có năng lượng tái tạo; cơ sở giáo dục, y tế có tính liên vùng; phát triển lâm nghiệp;… Đồng thời nhấn mạnh, điều quan trọng là đề ra được các cơ chế chính sách, huy động nguồn lực để tổ chức thực hiện quy hoạch.

Quy hoạch vùng TDMNPB thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt sẽ là cơ sở đặc biệt quan trọng để các cấp, các ngành, địa phương nghiên cứu xây dựng và triển khai thực hiện những chính sách, kế hoạch, chương trình phát triển, các dự án đầu tư nhằm phát triển kinh tế - xã hội bền vững của đất nước, của vùng và các địa phương trong vùng.

Liên quan đến hoạt động của cơ quan điều phối Vùng, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đề nghị các thành viên Hội đồng Vùng cần bám sát chức năng, quyền hạn, quy chế hoạt động nhằm khẩn trương thực hiện các nhiệm vụ liên quan; chủ động triển khai các nhiệm vụ được phân công và hoàn thành với trách nhiệm cao nhất; chủ động nghiên cứu, đề xuất các giải pháp huy động nguồn lực và tổ chức triển khai thực hiện quy hoạch vùng. Đối với các địa phương, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đề nghị cần khẩn trương hoàn thiện quy hoạch tỉnh; rà soát các quy hoạch cấp trên và các chỉ đạo mới, các mô hình kinh tế mới, xu thế mới để cập nhật vào quy hoạch./.

 

Tag:

File đính kèm