Là một người có nhãn quan chính trị nhạy bén, sắc sảo và một tầm nhìn vượt trước thời gian, trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, trên cơ sở am hiểu tường tận lịch sử, văn hóa dân tộc, dịch học phương Đông, phép biện chứng duy vật, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những dự báo thiên tài. Điều này càng được khẳng định thông qua Di chúc Người để lại với những dự báo chính xác về tương lai cách mạng Việt Nam: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”. (1)
Những dự đoán chính xác về tình hình thế giới
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, kể từ ngày ra đi tìm đường cứu nước cho đến khi trở thành lãnh tụ của Đảng, của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần dự đoán chính xác những sự kiện lịch sử quan trọng ở trong nước và thế giới. Ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, Người lại đưa ra những tiên đoán kỳ diệu với độ chính xác cao.
Ngay từ năm 1914, khi mới 24 tuổi, trong một bức thư gửi cho nhà cách mạng yêu nước Phan Chu Trinh, Người đã viết: “Tiếng súng đang rền vang. Thây người đang phủ đất. Năm nước lớn đang đánh nhau. Chín nước đang vào vòng chiến. Cháu bỗng nhớ cách đây vài tháng cháu đã nói với bác về cơn sấm động này...” (2). Điều đó có nghĩa là trước đó Bác đã dự đoán trước được cuộc đại chiến thế giới 1914-1918 sắp nổ ra.
Năm 1924, trong bài "Đông Dương và Thái Bình Dương", Bác đã dự báo về nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến tranh thế giới mới: "Thế nào rồi cũng có ngày nước Nga cách mạng phải đọ sức với chủ nghĩa tư bản". Với tầm nhìn chiến lược, Bác còn thấy trước Thái Bình Dương và các nước thuộc địa xung quanh sẽ trở thành miếng mồi béo bở cho các đế quốc nhòm ngó, “nên Thái Bình Dương và các nước thuộc địa xung quanh Thái Bình Dương, tương lai có thể trở thành một lò lửa của cuộc chiến tranh thế giới mới mà giai cấp vô sản sẽ phải nai lưng ra gánh” (3). Những tiên đoán này, 15 năm sau trở thành hiện thực. Năm 1939, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, phát xít Đức tấn công Liên Xô, các nước xung quanh Thái Bình Dương trở thành chiến trường ác liệt.
Năm 1941, trước diễn biến mới trên thế giới, Người dự báo: “Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã làm xuất hiện Liên Xô - một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, do đó cách mạng nhiều nước sẽ thành công” (4). Đúng như lời dự báo của Bác, chưa đến 4 năm sau, Liên Xô đã đánh bại phát xít Đức, giúp một loạt nước Đông Âu đứng lên giành độc lập dân tộc, mở đường cho hệ thống xã hội chủ nghĩa ra đời, như: Rumani, Bungary, Nam Tư, Ba Lan, Hungary, Tiệp Khắc; sau đó còn có Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên... cũng định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
“Việt Nam độc lập - 1945”
Đối với vận mệnh dân tộc, một sự kiện lịch sử trọng đại đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh dự báo từ năm 1941 là: Năm 1945 Việt Nam sẽ được độc lập.
Theo đó, cuối năm 1941, sau khi Người từ Trung Quốc về Pắc Bó (Cao Bằng), Người đã viết tác phẩm “Lịch sử nước ta” gồm 236 câu thơ lục bát, với lời mở đầu là: “Dân ta phải biết sử ta/Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” (5). Nội dung tác phẩm nêu bật tinh thần yêu nước, truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc qua các triều đại, ca ngợi những anh hùng dân tộc trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Phần cuối tác phẩm “Lịch sử nước ta” là mục “Những năm quan trọng”, ghi lại những sự kiện lớn trong lịch sử dân tộc diễn ra “trước Tây lịch, sau Tây lịch”. Đặc biệt tác phẩm kết thúc bằng mốc lịch sử 1945: “Năm 1945 - Việt Nam độc lập”. (6)
Trước đó, tháng 5/1941, tại Hội nghị Trung ương ở Pác Bó, Người đã dự liệu thời cơ tổng khởi nghĩa là lúc Liên Xô thắng Đức; Mỹ, Anh, Trung Quốc phản công đánh bại Nhật Bản. Đáng nói là dự báo này được bác đưa ra lúc Đức chưa tấn công Liên Xô, Nhật chưa tấn công vùng đất do Mỹ, Anh kiểm soát.
Đến ngày 1/1/1942, trong bài viết trên Báo Việt Nam độc lập số 114, trả lời câu hỏi: Năm nay tình hình thế giới và trong nước sẽ thế nào? Người đã đưa ra dự báo về thời điểm để tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền: “Ta có thể quyết đoán rằng, Nga nhất định thắng, Đức nhất định bại. Anh - Mỹ sẽ được, Nhật Bản sẽ thua. Đó là một dịp rất tốt cho dân ta khởi nghĩa đánh đuổi Pháp, Nhật, làm cho Tổ quốc ta được độc lập, tự do”. (7)
Nhờ những dự báo chính xác này nên Đảng ta đã tích cực chuẩn bị lực lượng để đón thời cơ. Và khi lịch sử diễn ra đúng như những gì Người dự đoán, chúng ta đã tranh thủ được thời cơ tiến hành Tổng khởi nghĩa và giành được độc lập cho đất nước vào đúng năm 1945.
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc vang bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Chiến thắng thực dân Pháp rồi, còn phải đánh đế quốc Mỹ
Năm 1949, trong truyện ngắn “Giấc ngủ mười năm” với bút danh Trần Lực do Tổng bộ Việt Minh xuất bản, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phác họa sự biến đổi của đất nước ta và con người Việt Nam sau chiến tranh. Trong đó Người vẽ ra viễn cảnh của xã hội nước ta sau khi chiến tranh kết thúc cho đến năm 1958 với những sự kiện gần như xác thực.
Đặc biệt Người đã mô tả trận đánh cuối cùng có quy mô to lớn, ác liệt; giặc Pháp đã phải huy động “từng đàn, từng lũ máy bay... tủa ra như ong”. “Chúng dội bom xuống như mưa. Tốp máy bay này về thì tốp khác tới, chúng thay nhau ném bom... tiếng nổ long trời chuyển đất, khói lên nghi ngút như mây”. Qua sự miêu tả ấy, chúng ta đều liên tưởng đến trận đánh quyết chiến, quyết thắng mang tầm chiến lược đã diễn ra ở Điện Biên Phủ năm 1954.
Cùng liên quan đến sự kiện này, đầu năm 1953, trên khắp các chiến trường, cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp đang trong giai đoạn ác liệt nhất. Nhưng trong bài thơ chúc Tết, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại khẳng định chắc chắn: “Trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi/Độc lập thống nhất, nhất định thành công” (8). Và Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 đã chứng minh dự đoán của Người hoàn toàn chính xác.
Một điều đáng ngạc nhiên khác là ngay sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, khi cả nước còn đang tưng bừng với niềm vui kết thúc cuộc kháng chiến “kết vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”, thì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lại nhìn thấy những âm mưu xâm lược của ngoại bang. Nhắc nhở đồng chí Tố Hữu về công tác tư tưởng, Người chỉ rõ: “Chiến thắng Pháp rồi, phải nhớ trước mặt ta còn có kẻ địch hùng mạnh hơn, hung ác hơn, đó là đế quốc Mỹ”. Trong bức điện gửi cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Người cũng nhắc nhở: “Thắng lợi tuy lớn nhưng chỉ bước đầu đấy!... Còn phải đánh Mỹ…”.
Lúc bấy giờ ít ai nghĩ rằng đế quốc Mỹ vừa bị tổn thất nặng nề trong chiến tranh Triều Tiên, lại có thể thay chân Pháp tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam. Song, lịch sử đã diễn ra đúng như Người nhận định. Chỉ ít lâu sau, Việt Nam lại phải tiếp tục bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và cuộc chiến này đã kéo dài tới tận 21 năm.
“Tổ quốc ta nhất định thống nhất”
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều lần dự báo về kết quả cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta và thời điểm đất nước thống nhất.
Năm 1960, trong một bản thảo chuẩn bị cho lễ kỷ niệm Quốc khánh 2/9, Bác Hồ đã tiên đoán về sự kiện ta giải phóng miền Nam: “Chậm lắm là 15 năm nữa Tổ quốc ta nhất định thống nhất, Bắc Nam nhất định sẽ sum họp một nhà”.
Trong bản thảo Di chúc đầu tiên viết ngày 15/5/1965, Bác khẳng định: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài mấy năm nữa. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn… Dù khó khǎn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”. (9)
Cuối năm 1967, khi làm việc với Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân, Người lại dự báo: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B.52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua mới chịu thua. Phải dự kiến trước tình huống càng sớm càng tốt, để có thời gian mà suy nghĩ chuẩn bị. Nhớ là trước khi thua ở Triều Tiên, đế quốc Mỹ đã hủy diệt Bình Nhưỡng. Ở Việt Nam, Mỹ nhất định thua. Nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”. (10)
Trong bản thảo Di chúc viết ngày 10/5/1969, Bác đã khẳng định lại niềm tin tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta, dù vào thời điểm ấy, cuộc chiến đấu của nhân dân cả nước đều đang trong giai đoạn vô cùng gay go, quyết liệt. Người viết: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”.
Lịch sử đã diễn ra đúng như dự báo của Người. “Nó chỉ thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội” - năm 1972, quân và dân ta đã làm nên chiến thắng lẫy lừng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không", buộc một đế quốc sừng sỏ phải chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán, tiến tới ký Hiệp định Paris. Trung tướng Nguyễn Xuân Mậu - nguyên Phó Chính ủy Quân chủng Phòng không Không quân cho biết: Thắng lợi này là kết quả của tầm nhìn xa trông rộng, sự sáng suốt của Hồ Chủ tịch từ đầu những năm 1960, khi Người dự báo khả năng chúng ta sẽ phải chiến đấu với không quân Mỹ nên đã chỉ đạo nghiên cứu cách đánh B52.
Và đúng 15 năm sau - năm 1975, dân tộc ta đã được ca khúc khải hoàn, khi đã đánh đuổi ngoại xâm, thống nhất đất nước, hoàn thành di nguyện của lãnh tụ Hồ Chí Minh - non sông liền một dải, “Bắc-Nam sum họp một nhà”.
Thực tế đã cho thấy, nghiên cứu, nhận định, đánh giá, dự báo đúng tình hình là vấn đề cơ bản, xuyên suốt được Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng, là điều kiện để chuẩn bị chính trị, tinh thần, hoạch định đường lối, quyết sách đúng đắn, phù hợp, xác định tâm thế chủ động, sẵn sàng cho mọi tình huống và giành thắng lợi trong mọi cuộc đấu tranh chống quân xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. Các dự đoán đó không phải là “võ đoán” hay ngẫu nhiên mà trên cơ sở khoa học, xem xét, đánh giá tình hình khách quan, toàn diện.
Ngày nay, cho dù đất nước ta đã được hòa bình, thống nhất nhưng việc nắm chắc tình hình để lường trước những tình huống có thể xảy ra vẫn luôn là bài học quý, có ý nghĩa thời sự sâu sắc đối với từng bước đi lên của đất nước, giúp Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn, không ngừng phát triển và hội nhập./.
Theo TTXVN
(1), (9): Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội-2011, tập 15, tr. 618, 612
(2): Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập 1, tr.4
(3): Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập 1, tr.263-264
(4): Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7, tr. 100
(5), (6): Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập 3, tr.259, 267
(7): Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập 3, tr.250-251
(8): Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập 8, tr.1
(10): Hồ Chí Minh, Biên niên sự kiện và tư liệu quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr. 203