Sign In

Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” bắt đầu diễn ra ngày 13/3/1954 - “Quyết định lịch sử” thay đổi vận mệnh dân tộc

03:59 13/03/2024
Cách đây 70 năm, ngày 13/3/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” bắt đầu diễn ra. Trong chiến dịch lịch sử này, quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử, nhưng ở những thời điểm mang tính bước ngoặt quyết định, Đại tướng Võ Nguyên Giáp với “quyết định lịch sử” có vai trò to lớn, làm thay đổi vận mệnh lịch sử một dân tộc.

Cách đây 70 năm, ngày 13/3/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, trấn động địa cầu” bắt đầu diễn ra. Trong chiến dịch lịch sử này, quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử, nhưng ở những thời điểm mang tính bước ngoặt quyết định, Đại tướng Võ Nguyên Giáp với “quyết định lịch sử” có vai trò to lớn, làm thay đổi vận mệnh lịch sử một dân tộc.

Sau khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ ngày 19/12/1946, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân ta đã giành nhiều thắng lợi làm thay đổi cục diện trên chiến trường, tiêu biểu như thắng lợi trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông (1947), chiến dịch Biên giới Thu - Đông (1950), các chiến dịch Hòa Bình, Trần Hưng Đạo, Quang Trung (1951-1952), chiến cuộc Đông - Xuân (1953-1954) là thời kì chiến tranh Đông Dương diễn ra ác liệt nhất, chuyển thế và lực của ta từ “phòng ngự bị động”, “phòng ngự” lên “phòng ngự tích cực”, giành và giữ quyền “chủ động tác chiến”, “chủ động chiến lược trên chiến trường”, phản công giành thắng lợi; đẩy địch từ thế chủ động với âm mưu “đánh chớp nhoáng”, “đánh nhanh, thắng nhanh” sang thế “đánh lâu dài”, bị động đối phó và thất bại.

Bước vào chiến cuộc Đông - Xuân (1953-1954), cục diện chiến trường Đông Dương có chuyển biến căn bản theo hướng có lợi cho cuộc kháng chiến của Nhân dân ta. Với sự giúp đỡ của Mĩ, thực dân Pháp đề ra kế hoạch Nava gồm 02 bước “tập trung lực lượng cơ động mạnh, giữa thế phòng ngự ở miền Bắc và tấn công chiến lược miền Nam; sau đó, chuyển lực lượng ra Bắc, giành thắng lợi quyết định, buộc ta phải đàm phán theo những điều kiện có lợi cho chúng”, với hy vọng giành thắng lợi quyết định làm xoay chuyển cục diện nhằm chuyển bại thành thắng và “kết thúc chiến tranh trong danh dự”. Chúng tập trung xây dựng lực lượng cơ động mạnh (44/84 tiểu đoàn) ở đồng bằng Bắc Bộ, tiến hành càn quét, bình định nhằm “đè bẹp các đại đoàn chủ lực” của ta. Tháng 9/1953, Bộ Chính trị đã họp nhận định: “Kế hoạch Nava ra đời trong thế bị động; không thế giải quyết được khó khăn cơ bản giữa tập trung và phân tán lực lượng chiếm đóng; ngày càng lệ thuộc Mĩ”; đồng thời, thực hiện phương châm “tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt” và nguyên tắc chỉ đạo tác chiến “tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta; đánh chắc thắng; đánh tiêu diệt; chọn nơi địch sơ hở, nơi địch tương đối yếu mà đánh; giữ vững chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán lực lượng để đối phó với ta trên nhiều hướng”. Thực hiện quyết định của Bộ Chính trị, quân ta mở một loạt chiến dịch, tiến công địch ở hầu khắp chiến trường Đông Dương, đặc biệt là với các đòn tiến công chiến lược của quân ta trên các địa bàn trọng điểm: Tây Bắc, Trung Lào, Hạ Lào, Đông Bắc Cămpuchia, Tây Nguyên đã buộc thực dân Pháp phải phân tán lực lượng để đối phó và làm cho kế hoạch Nava với mưu đồ tập trung lực lượng bước đầu bị phá sản.

Trước nguy cơ đó, Nava quyết định chọn Điện Biên Phủ (có vị trí chiến lược then chốt ở Đông Dương) làm nơi quyết chiến chiến lược với ta. Nava xây dựng Điện Biên Phủ thành “tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương”, gồm hệ thống công sự, boogke, hầm hào, hệ thống pháo binh… ở cả mặt đất và trên không, nhằm "nghiền nát" chủ lực của ta. Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn ở phía Tây vùng núi Tây Bắc, có lòng chảo Mường Thanh dài gần 18 km, rộng từ 6,0-7,0 km, có vị trí chiến lược quan trọng bậc nhất Đông Dương, nằm gần biên giới Việt - Lào, trên một đầu mối giao thông quan trọng, có đường đi sang Lào, thực dân Pháp đã huy động một lực lượng lớn quân viễn chinh gồm 16.200 lính tinh nhuệ; 48 khẩu pháo, cối các loại từ 75 đến 120 li; xây dựng và mở rộng 02 sân bay với hàng trăm máy bay, được bố trí thành 03 phân khu Bắc - Trung - Nam với 49 cứ điểm liên hoàn, với hệ thống công sự và hàng rào dây thép gai kiên cố. Chiến trường Điện Biên Phủ, từ chỗ không có kế hoạch Nava, nhưng trước các đòn tiến công của ta buộc thực dân Pháp phải huy động một lực lượng lớn binh lực để tập trung xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất ở Đông Dương. Thực dân Pháp và đế quốc Mĩ coi Điện Biên Phủ là “một pháo đài bất khả xâm phạm”, là trung tâm của kế hoạch Nava, đẩy chiến tranh Đông Dương đến đỉnh điểm. Trận quyết chiến chiến lược - “cuộc đụng đầu Đông - Tây” chính thức bắt đầu.

Nhận định đây là trận quyết chiến chiến lược có ý nghĩa rất quan trọng, là thời cơ thuận lợi cho ta sớm kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Vì vậy, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết tâm: “Toàn dân, toàn Đảng và Chính phủ nhất định đem toàn lực chi viện chiến dịch Điện Biên Phủ và nhất định làm mọi việc cần thiết để giành thắng lợi”. Thực hiện quyết tâm tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ, bộ phận tham mưu của ta và đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc đi trước để chuẩn bị chiến trường đã đề nghị phương án “Đánh nhanh, thắng nhanh” nhằm tranh thủ địch vừa tăng cường lực lượng, đứng chân chưa vững, ta tập trung lực lượng tiến công tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ trong “03 đêm 02 ngày”. Đại tướng Vi Quốc Thanh - Trưởng phái đoàn quân sự Trung Quốc khuyên ta: “Nếu không đánh sớm, nay mai địch tăng cường thêm quân và củng cố công sự thì cuối cùng không còn điều kiện công kích quân địch nữa”.

Ngày 06/12/1953, tại Tỉn Keo, xã Phú Đình, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, Chiến khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh (giữa), Đại tướng, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp (ngoài cùng bên phải)

cùng với các đồng chí trong Bộ Chính trị thông qua chủ trương, kế hoạch tác chiến, quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ (Ảnh tư liệu)

Bộ Chính trị đề ra kế hoạch“Đánh nhanh, giải quyết nhanh và quyết định: Nổ súng lúc 17 giờ, ngày 25/01/1954, kết thúc thắng lợi trong hai đêm ba ngày”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp được Trung ương Đảng và Bác Hồ tin tưởng giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ. Quán triệt kế hoạch trên, để chuẩn bị và bảo đảm cho thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, ta đã huy động hàng chục vạn dân công, hàng vạn thanh niên xung phong, ngày đêm vượt qua đèo cao, núi dốc, vượt qua mưa bom, bão đạn của kẻ thù để vận chuyển lương thực, vũ khí cho bộ đội đánh giặc và phá bom nổ chậm của địch, mở đường đến các trận địa. Hàng chục khẩu pháo các loại và hàng vạn bộ đội đã bí mật vào vị trí tập kết, sẵn sàng chờ mệnh lệnh “khai hỏa”. Trước khi lên đường ra mặt trận, tại Thủ đô kháng chiến ở Tân Trào, Đại tướng đã đến chào Bác Hồ. Bác Hồ hỏi Đại tướng: “Chú đi xa như vậy, chỉ đạo các chiến trường,có gì trở ngại không?”. Đại tướng trả lời: “Các đồng chí Tổng tham mưu trưởng, Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị đều đã có mặt trên đó. Sẽ tổ chức cơ quan tiền phương của Bộ tư lệnh để chỉ đạo chiến trường toàn Quốc, kể cả Bộ đội tình nguyện ở Lào và Cămpuchia. Anh Nguyễn Chí Thanh và anh Văn Tiến Dũng ở lại khu căn cứ, phụ trách mặt trận đồng bằng Bắc bộ. Chỉ trở ngại là ở xa có vấn đề quan trọng và cấp thiết, khó xin ý kiến của Bác và Bộ chính trị”. Nghe vậy, Bác Hồ nói với Đại tướng: “Tổng tư lệnh ra mặt trận, tướng quân tại ngoại. Trao cho chú toàn quyền. Có vấn đề gì khó khăn bàn thống nhất trong Đảng ủy, thống nhất với cố vấn thì cứ quyết định, rồi báo cáo sau”. Với cương vị Tổng Tư lệnh kiêm Bí thư Tổng Quân uỷ cùng ý chí, tinh thần kiên trung, bản lĩnh của người Cộng sản, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Linh hồn ấy đã kết tinh và tỏa sáng ở “quyết định lịch sử” trong trận quyết chiến chiến lược giữa ta và địch ở Điện Biên Phủ. Trong trận đánh quyết định này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao trọn niềm tin cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp và căn dặn: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh”[1]. Đây không chỉ là sự tin tưởng tuyệt đối của Đảng và Bác Hồ, mà cao hơn là trọng trách của người cầm quân! Vận mệnh cả dân tộc đặt trọn niềm tin vào chiến thắng này, đòi hỏi ở Đại tướng một ý chí, tinh thần thép, bản lĩnh của người chỉ huy cao nhất trên chiến trường. 

 Sau khi thị sát chiến trường và phân tích, đánh giá tình hình địch ở Ðiện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc cân nhắc, đưa ra hai phương án: “Ðánh nhanh” và “đánh chắc” để phân tích. Qua trao đổi, Trưởng và Phó Đoàn chuyên gia Trung Quốc là Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh đều chọn phương án “đánh nhanh, thắng nhanh”, dùng mũi thọc sâu “tạo nên sự rối loạn ở trung tâm phòng ngự địch ngay từ đầu, rồi từ trong đánh ra từ ngoài đánh vào, tiêu diệt địch trong thời gian tương đối ngắn”[2] và quyết định nổ súng vào 17h ngày 25/01/1954 theo kế hoạch của Bộ Chính trị. Tất cả đều chuẩn bị nhanh chóng cho chiến dịch Điện Biên Phủ, mọi công việc chuẩn bị cả về vật chất và tinh thần cho trận đánh được triển khai theo phương án “Đánh nhanh, thắng nhanh” đã hoàn tất. Nhưng trước ngày nổ súng Đại tướng nhận thấy địch không ngừng củng cố công sự ngày càng vững chắc, không còn ở thế phòng ngự dã chiến như ban đầu. Với linh tính của một vị trướng và theo dõi sát tình tình thay đổi trên thực tiễn chiến trường, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quyết định hoãn thời gian nổ súng 24 tiếng trong khi các đơn vị đã sẵn sàng chờ lệnh.

Trong Hồi ký của mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Tôi cảm thấy như cả tháng đã trôi qua… Mỗi ngày, tôi càng nhận thấy rõ là không thể đánh nhanh được. Lời Bác dặn trước lúc lên đường và nghị quyết Trung ương hồi đầu năm lại văng vẳng bên tai: ‘Chỉ được thắng không được bại, vì bại thì hết vốn!’. Đêm ngày 25/01/1954, tôi không sao chợp mắt được. Đầu đau nhức. Đồng chí Thùy, y sĩ, buộc trên trán tôi một nắm ngải cứu. Tôi đã hiểu vì sao mọi người đều muốn đánh nhanh... Lý do chính là e thời gian chuẩn bị kéo dài... tập đoàn cứ điểm ngày càng mạnh... ta mất cơ hội tiêu diệt địch... Đặc biệt, mọi người đều tin vào khí thế của bộ đội… Nhưng... Không phải chỉ với... tinh thần cao mà lúc nào cũng chiến thắng... Chúng ta cũng không thể giành chiến thắng với bất cứ giá nào, vì phải giữ gìn vốn liếng cho cuộc chiến đấu lâu dài… Về khả năng đánh nhanh thắng nhanh, tôi đã cảm thấy làm như vậy là mạo hiểm… Đến nay, tình hình địch đã thay đổi nhiều. Chúng đã củng cố công sự phòng ngự, không còn là trận địa dã chiến. Bộ đội sẽ phải tiến hành một trận công kiên vào một tập đoàn cứ điểm phòng ngự vững chắc chưa từng có...

Ba khó khăn hiện lên rất rõ. Thứ nhất, bộ đội chủ lực ta... (ngay) ở Nà Sản (tương đối yếu hơn hẳn) vẫn có những trận đánh không thành công, bị thương vong nhiều. Thứ hai, trận này... đánh hiệp đồng binh chủng bộ binh, pháo binh với quy mô lớn lần đầu, mà lại chưa qua diễn tập. Vừa qua, có trung đoàn trưởng xin trả pháo vì không biết phối hợp thế nào! Thứ ba,... Trận đánh sẽ diễn ra trên một cánh đồng dài 15km và rộng 6,0-7,0km... Tất cả những khó khăn đó đều chưa được bàn bạc kỹ và tìm ra cách khắc phục. Nhưng giải quyết ra sao bây giờ? Pháo đã vào vị trí, các đại đoàn đều có mặt ở tuyến xuất phát xung phong. Quyết định hoãn trận đánh một lần nữa sẽ tác động tới tinh thần bộ đội như thế nào?...

Tôi cảm thấy phải cho các đơn vị rút khỏi trận địa để nghiên cứu một cách đánh khác dù bộ đội có thắc mắc. Phải chuyển từ phương án ‘đánh nhanh thắng nhanh’ sang phương án ‘đánh chắc tiến chắc’. Thời gian chuẩn bị sẽ kéo dài. Ngoài công tác chuẩn bị đánh địch ở Điện Biên Phủ, bộ đội ta cần có những hoạt động tạo nên bất ngờ mới cho địch. Tôi nghĩ trước mắt sẽ điều ngay một cánh quân sang Thượng Lào thu hút quân địch về hướng này, có thể quét sạch hàng lang Điện Biên Phủ - Luông Pha Băng chúng mới lập ở lưu vực sông Nậm Hu. Và cần nhắc Liên khu Năm triển khai nhanh chiến dịch ở Tây Nguyên. Phải họp ngay Đảng ủy Mặt trận... Suốt đêm tôi chỉ mong trời sáng”[3].

Văn phòng thông báo cuộc họp Đảng ủy mặt trận: “Tôi trình bày những suy nghĩ đã có từ lâu... Mặc dù, trong buổi họp nhiều ý kiến chưa thông suốt với cách chuyển hướng chiến lược trận đánh, nhưng trước lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh… cần chuyển phương châm tiêu diệt địch từ ‘đánh nhanh, thắng nhanh’ sang ‘đánh chắc, tiến chắc’. Nay quyết định hoãn cuộc tiến công... Trong ngày hôm đó, tôi đã thực hiện được một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của mình"[4].

Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng các cán bộ chỉ huy họp bàn kế hoạch tác chiến trong chiến dịch Điện Biên Phủ 1954 (Ảnh tư liệu)

Đưa ra “quyết định lịch sử”, Đại tướng suy xét, phân tích tổng hợp lý luận và thực tiễn, so sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch: Quân đội Pháp đến thời điểm đó không còn ở trạng thái lâm thời phòng ngự như trước mà đã trở thành “tập đoàn cứ điểm phòng ngự kiên cố”, pháo đài “bất khả xâm phạm”, được trang bị vũ khí tối tân, có máy bay, xe tăng và đặc biệt pháo binh Pháp - binh chủng hàng thế kỷ thiện chiến dạn dày kinh nghiệm. Họ khảo sát tính toán kỹ sơ đồ, địa hình từng khoảng đất vùng núi lòng chảo Điện Biên Phủ. 

Về phía ta, khi mọi công tác chuẩn bị đã hoàn thành, trong đó, có sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc về vũ khí đạn dược, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, không thể so sánh với xe tăng, máy bay, pháo binh, quân đội nhà nghề của thực Pháp tập kết ở Điện Biên Phủ cũng như lực lượng thường xuyên tăng viện cho pháo đài bất khả xâm phạm dưới lòng chảo Điện Biên... Những thuận lợi và khó khăn, sự thành công và thất bại của chiến dịch hiện lên trước mặt Đại tướng, trong đó, Ông luôn đặt lên trên hết tính mạng từng người lính, chiến sĩ trên chiến trường, không thể mạo hiểm, dốc toàn lực lượng quân đội “đánh nhanh, thắng nhanh”. Đặc biệt, nếu chúng ta “đánh nhanh, thắng nhanh” lúc này, càng tạo thêm thuận lợi, giúp thực dân Pháp thành công âm mưu “đánh nhanh, giải quyết nhanh”, giành thế thắng trên chiến trường.

Vì vậy, trước giờ phút hệ trọng đi đến quyết định khai chiến, Đại tướng Võ Nguyên Giáp linh giác và nhớ như in lời dặn của Bác: “tướng quân tại ngoại”, “trao cho chú toàn quyền quyết định”! 11 ngày “mất ăn, mất ngủ” và một đêm thức trắng với nắm ngải cứu thường trực trên đầu, Đại tướng đưa ra quyết định cuối cùng “đánh chắc, tiến chắc”, quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của Đại tướng. “Quyết định lịch sử” này là sự kế thừa và phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam “đánh lâu dài” lên tầm cao mới, phù hợp với đường lối, chủ trương kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng “Ta không chủ quan khinh địch, không nóng vội, không mạo hiểm. Ðánh ăn chắc tiến ăn chắc. Chắc thắng thì kiên quyết đánh cho kỳ thắng. Không chắc thắng thì kiên quyết không đánh. Nếu chủ quan, mạo hiểm mà một lần thua nặng, thì sẽ tai hại lớn. Chiến trường của ta hẹp, người của ta không nhiều, nên nói chung ta chỉ có thắng chứ không được bại, vì bại là hết vốn”[5] và lời căn dặn của Bác Hồ. Sáng ngày 26/01/1954, Đại tướng lệnh hoãn tiến công, thu quân về vị trí tập kết, chuẩn bị lại theo phương châm “đánh chắc, tiến chắc”. Quyết định này được Bộ Chính trị và Bác Hồ đồng tình ủng hộ.

Ngay sau đó, một kế hoạch tác chiến mới được thiết kế công phu, tỉ mỉ, toàn diện cả về công tác tư tưởng, tổ chức, thiết bị chiến trường, mục tiêu, nhiệm vụ các bước, bảo đảm hậu cần - quân y trên các hướng... Đại tướng ra lệnh cho Đại đoàn 308 “phải nhanh chóng đưa ngay quân sang phối hợp với bạn Lào và Quân tình nguyện Việt Nam, tranh thủ địch mới nhảy dù xuống tăng cường cho phòng tuyến sông Nậm Hu (Mường Khoa), Mường Ngòi, Luông Pra-băng; thu hút lực lượng bộ binh và không quân địch về phía đó càng nhiều càng tốt nhằm nghi binh đánh lạc hướng địch, tạo điều kiện cho việc chuẩn bị của ta ở Điện Biên Phủ”; Đại đoàn phải tự khắc phục về mặt hậu cần và phải chấp hành với tinh thần “quân lệnh như sơn”.

Sử dụng xe đạp thồ vượt qua những đường đèo hiểm trở, nơi xe cơ giới không thể đi qua, để vận chuyển vũ khí lương thực và nhu yếu phẩm tiếp tế cho các chiến sĩ ở mặt trận (Ảnh tư liệu)

Việc thay đổi phương châm tác chiến và thời điểm nổ súng tiến công là một quyết định sáng suốt, kịp thời, sát với tình hình thực tiễn, đưa đến thắng lợi. Với phương châm mới, thời gian mở chiến dịch lùi lại, giờ G được chọn bắt đầu nổ súng trong chiến dịch Điện Biên Phủ vào ngày 13/3/1954. Trải qua “56 ngày đêm khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt/ Máu trộn bùn non/ Gan không núng/ Chí không mòn!”, ta huy động một lực lượng lớn chuẩn bị cho chiến dịch gồm 01 đại đoàn bộ binh, 01 đại đoàn công pháo và nhiều tiểu đoàn… với khoảng 55.000 quân, hàng chục ngàn tấn vũ khí, đạn dược; lương thực, cùng nhiều xe thồ vận tải, thuyền bè,… chuyển ra mặt trận “bảo đảm hậu cần cho bộ đội chiến đấu liên tục trên địa bàn xa hậu phương trong Chiến dịch Điện Biên Phủ”. Đúng 13 giờ, ngày 13/3/1954, Đại tướng ra lệnh cho quân ta nổ súng tiến công Điện Biên Phủ. Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra trong 03 đợt, đợt 1 từ 13-17/3/1954, đợt 2 từ 30/3-24/4/1954 và đợt 3 từ 01-07/5/1954, trải qua 03 đợt chiến đấu ác liệt, dân tộc Việt Nam đã viết nên thiên anh hùng ca chiến thắng, Điện Biên Phủ trở thành sự kiện “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Sử gia Phương Tây W.Burchett đã thừa nhận trong Hồi ký của mình: “Điện Biên Phủ thắng lợi hoàn toàn một ngày trước khi hội nghị đó khai mạc nhờ thời điểm tuyệt diệu của ông Giáp”.

Với nhiều luận cứ, chứng cứ rõ ràng, xác thực, đanh thép như trên, có thể khẳng định rằng: chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ thuộc về dân tộc Việt Nam, thể hiện văn hóa Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó, nhân tố quyết định trực tiếp là “quyết định lịch sử” thay đổi cách đánh từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” của Đại tưỡng Võ Nguyên Giáp. Tư tưởng “đánh chắc thắng” là bất biến, là truyền thống đánh giặc giữ nước ngàn năm của ông cha ta truyền lại và được Đại tướng Võ Nguyên Giáp kế thừa và phát huy, không chỉ trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ mà còn thể hiện đậm nét trong cuộc kháng chiến chống Mĩ sau này. “Quyết định lịch sử” chuyển phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” không chỉ là nhân tố trực tiếp quyết định thắng lợi của trận Ðiện Biên Phủ mà còn làm thay đổi vận mệnh dân tộc, kết thúc chặng đường lịch sử vẻ vang trong 09 năm kháng chiến chống thực dân Pháp “Chín năm làm một Điện Biên/ Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”. Đánh giá “quyết định lịch sử” này, Đại tướng Lê Trọng Tấn từng ca ngợi: “Nếu không có quyết định chuyển phương châm ngày đó thì phần lớn chúng tôi sẽ không có mặt trong kháng chiến chống Mỹ”. Còn Trung tướng Vương Thừa Vũ nhận định: “Nếu lần đó cứ đánh nhanh, giải quyết nhanh’ thì cuộc kháng chiến có thể lùi lại mười năm”. Trong tác phẩm “Võ Nguyên Giáp, một sự đánh giá”, nhà nghiên cứu lịch sử quân sự Peter MacDonald (người Anh) đã viết: “Điều làm Điện Biên Phủ nổi tiếng chính là ở cách đánh, ở tiến trình phát triển cuộc chiến cũng như kết cục và những hệ quả mà nó dẫn đến... Tất cả những điều đó đã khiến Điện Biên Phủ trở thành trận đánh quyết định của mọi thời đại và đưa tên tuổi Võ Nguyên Giáp vào sử sách”.

Thắng lợi của quân và dân ta ở Điện Biên Phủ là một trong những thắng lợi to lớn nhất, oanh liệt nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. “Được ghi vào lịch sử Việt Nam như một trong những chiến công chói lọi nhất, một Bạch Đằng, một Chi Lăng, một Đống Đa của thế kỷ XX. Được ghi vào lịch sử thế giới như một chiến công hiển hách đột phá thành trì của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa nô dịch thuộc địa”. Thắng lợi đó bắt nguồn từ đường lối kháng chiến đúng đắn của Đảng, tinh thần chiến đấu kiên cường dũng cảm, sáng tạo của quân đội và Nhân dân ta, gắn liền với tên tuổi và sự đóng góp kiệt xuất của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng với “Quyết định lịch sử” trong sự nghiệp cầm quân lừng lẫy của Người là tài sản vô giá, là bệ đỡ vững chắc để dân tộc Việt Nam tiếp tục dệt thêu nên những huyền thoại có thật ở thế kỷ XXI này.

Thời gian đã trôi đi, nhưng hai sự kiện trọng đại chiến thắng Điện Biện Phủ vẫn còn in đậm dấu ấn Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đại tướng là biểu tượng của nhiều thế hệ người dân về ý chí kiên cường và niềm tự hào dân tộc. Kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954-07/5/2024), lật lại trang sử vàng của dân tộc, mỗi người dân Việt Nam lại càng tự hào hơn về vị Đại tướng lỗi lạc của mình. Xuất thân từ một thầy giáo dạy môn sử, chính Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã góp phần quan trọng làm nên trang sử hào hùng cho dân tộc Việt Nam. Tài năng, đức độ và bầu nhiệt huyết cách mạng của tướng Giáp khiến bạn bè quốc tế nể phục, tôn ông là “Đại tướng hòa bình”, “Đại tướng của Nhân dân”… Dẫu biết rằng không giấy mực nào nói hết những chiến công, những phẩm chất cao đẹp của Đại tướng, song ở thời khắc này, khi cả nước đang tưng bừng, hân hoan mừng 70 năm Ngày chiến thắng, xin được kính cẩn nghiêng mình bày tỏ lòng thành kính những con người đã làm nên những chiến công dạng danh cho Tổ quốc.

----------

[1] Nhiều tác giả (2013), 60 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ bản hùng ca bất diệt của thế kỷ XX, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, tr.34.

[2] Hoàng Minh Phương, Nắm ngải cứu trên đầu đồng chí Tổng tư lệnh, Tạp chí Xưa và Nay số 208, 3-2004, tr.10.

[3] Đại tướng Võ Nguyên Giáp (2006), Hồi ký Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử (in lại trong Tổng tập hồi ký), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr.921-925.

[4] Võ Nguyên Giáp (2000), Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr.65, 105, 111, 112.

[5] Văn kiện Ðảng (2001), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 14, tr.59.

[6] W.Burchett: Hồi ký, Nxb. Thông tin Lý luận, H.1987, tr.262.

Lê Sơn


Tag:

File đính kèm