Sign In

Một vài luận cứ góp phần phản bác các quan điểm sai trái về tự do tôn giáo ở Việt Nam

20:40 25/07/2023
Thời gian qua, các thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chống phá ta. Chúng thường xuyên đưa ra những luận điệu cho rằng “Việt Nam không có tự do tôn giáo” hòng sử dụng chiêu bài tôn giáo để chống phá ta, làm ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế cũng như gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà Đảng, Nhà nước ta đang ra sức xây dựng. Bài viết này sẽ cung cấp một vài luận cứ nhằm phê phán, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc đó, khẳng định những thành tựu của Nhà nước Việt Nam trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của người dân.

Các thế lực thù địch trong và ngoài nước thường khai thác triệt để mạng xã hội để xuyên tạc, đưa ra những nhận định sai trái, thiếu khách quan về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam, như: “Ở Việt Nam chưa có tự do tôn giáo thật sự, vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam chưa đạt được quy định của Công ước quốc tế; luật pháp Việt Nam có nhiều điều luật quy định “không rõ ràng” để kiểm soát, hạn chế tự do tôn giáo, sử dụng điều khoản về an ninh quốc gia với các “tội danh mơ hồ” để “đàn áp, hạn chế” tự do tôn giáo; các tôn giáo ở Việt Nam bị buộc im tiếng hay biến thành công cụ của Nhà nước; Nhà nước Việt Nam gây khó khăn cho việc đăng ký và công nhận tổ chức tôn giáo, đặc biệt với các nhóm tôn giáo ở vùng sâu, vùng xa, vùng các dân tộc thiểu số; chính sách nghĩa vụ quân sự của Nhà nước Việt Nam cản trở quyền tu học của thanh niên Khmer; các nhân vật đấu tranh cho tự do tôn giáo luôn bị nhà nước gây khó khăn trong hoạt động, bị hạn chế đi lại; ở Việt Nam có các “tù nhân lương tâm”, “tù nhân tôn giáo”..”

Tuy nhiên, có thể thấy rằng những nhận định trên hoàn toàn mang tính bịa đặt, bóp méo sự thật và xuyên tạc chính sách tự do tôn giáo ở Việt Nam. Trên thực tế, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm và tạo điều kiện để các tôn giáo hoạt động bình đẳng trong phạm vi và khuôn khổ pháp luật Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã tham gia ký kết nhiều văn kiện quốc tế liên quan đến quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và đã không ngừng nỗ lực bảo đảm quyền tự to tín ngưỡng, tôn giáo cho người dân.

Đảng, Nhà nước Việt Nam không ngừng nỗ lực bảo đảm quyền tự to tín ngưỡng, tôn giáo cho người dân

Quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng đã được thừa nhận trong nhiều văn bản pháp lý của Việt Nam, cụ thể: tại Điều 24 Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Nội dung này hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế. Bên cạnh đó, tại Điều 9, Điều 116 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Điều 13, 20 của Luật Giáo dục năm 2019, Điều 17 của Luật Tổ chức Chính phủ 2015 và Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 một số nguyên tắc, chuẩn mực cơ bản về bảo vệ, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo đã được ghi nhận. Theo đó, các văn bản pháp luật của Việt Nam quy định rất rõ về quyền và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người dân.

Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tự do tôn giáo, tín ngưỡng

Cụ thể, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định rõ quyền tự do tin hoặc không tin theo tôn giáo, tự do bày tỏ niềm tin, thực hành nghi lễ tín ngưỡng, tôn giáo, tham gia lễ hội, học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo của mọi người; quyền của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc; quyền tự do tôn giáo của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam. Trong thực tế, Nhà nước ta cũng đã và đang nỗ lực để đảm bảo quyền tự do tôn giáo của người dân. Các hoạt động sinh hoạt tôn giáo theo nghi lễ truyền thống của mỗi tôn giáo được đảm bảo và tạo điều kiện. Các cá nhân và tổ chức tôn giáo được Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi và đảm bảo điều kiện sinh hoạt tôn giáo theo quy định của pháp luật như: “tạo điều kiện cho các tôn giáo hoàn thiện cơ cấu tổ chức giáo hội; tạo điều kiện về cơ sở thờ tự và sinh hoạt tôn giáo, về kinh sách phục vụ cho việc tu học và hành đạo, về đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, người hướng dẫn việc đạo, về mở rộng các mối quan hệ quốc tế.”

Mỗi năm, ở Việt Nam có hàng triệu bản in bao gồm sách và các ấn phẩm tôn giáo được phát hành để phục vụ cho nhu cầu học tập và tìm hiểu của người dân. Bên cạnh đó, Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đăng cai tổ chức các hoạt động tôn giáo quy mô lớn, mang tầm khu vực như: “Công giáo với Lễ Năm thánh 2010 và Hội nghị Liên Hội đồng Giám mục Á châu năm 2012; Phật giáo với Đại lễ Phật đản Vesak các năm 2008, 2014, 2019; đạo Tin lành với Lễ kỷ niệm 500 năm Tin lành cải chính năm 2017…”

Đại lễ Phật đản Vesak 2019

Có thể nói rằng tất cả các quốc gia trên toàn thế giới đều đặt vấn đề đảm bảo chủ quyền quốc gia, ổn định an ninh và trật tự xã hội lên hàng đầu và quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo phải được đặt trong khuôn khổ pháp luật của nhà nước và luôn đi liền với nghĩa vụ bảo vệ quyền và lợi ích của quốc gia, dân tộc. Cụ thể, tai Khoản 3, Điều 18 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị có quy định: “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”. Điều này cho thấy, Công ước quốc tế cũng đã thừa nhận rằng quyền tự do tôn giáo cũng có thể bị giới hạn bởi khuôn khổ pháp luật và tùy thuộc vào luật pháp của mỗi quốc gia. Do đó, sẽ là một sự so sánh khập khiểng khi đem quan niệm về tự do tôn giáo ở một quốc gia này làm quy chiếu cho các quốc gia khác; tương tự không thể đem những giá trị và tiêu chuẩn về tự do tôn giáo ở quốc gia này để đánh giá quyền tự do tôn giáo ở một quốc gia khác.

Tại Việt Nam, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 (Điều 5) đã quy định rõ những hành vi và hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng bị nghiêm cấm bao gồm: “1. Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; 2. Ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo; 3. Xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo; 4. Hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo: a) Xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường; b) Xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác; c) Cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; d) Chia rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; 5. Lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi”. Những quy định này hoàn toàn phù hợp với Điều 18 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị nhằm hướng đến việc đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của mỗi cá nhân, đảm bảo chủ quyền quốc gia, dân tộc. Chính vì vậy, những nhận định cho rằng Việt Nam không có tự do tín ngưỡng tôn giáo là những nhận định gán ghép và phiến diện, hòng phớt lờ những thành tựu về tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhằm mục đích lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa của ta, tạo cớ hòng công khai can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân cần hết sức tỉnh táo trước những âm mưu, thủ đoạn và luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội liên quan đến các vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo.

                                                                                                                                           Nguyễn Hoài Thân

                                                                                                                            Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Long An

Tag:

File đính kèm