Sign In

Sự phát triển nhận thức, tư duy lý luận, đường lối chủ trương của Đảng ta về xây dựng nhà nước pháp quyền ​

11:05 04/05/2024


 

1. Quá trình phát triển nhận thức lý luận đường lối của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền

 

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một chủ trương lớn, một nhiệm vụ rất quan trọng, thể hiện tầm nhìn dài hạn và chủ trương chiến lược sáng suốt của Đảng ta đã được đề ra trong nhiều văn kiện của Đảng.

Ở nước ta, ngay từ năm 1922, trong "Việt Nam yêu cầu ca", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Bảy xin hiến pháp ban hành/Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”.

 

Ngay sau khi mới giành được độc lập năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo tiến hành tổng tuyển cử trong cả nước để bầu Quốc hội, và khẩn trương soạn thảo Hiến pháp do chính Người trực tiếp chỉ đạo và làm Trưởng Ban. Hiến pháp năm 1946 đã xác định: Phải xây dựng nhà nước mà ở đó “tất cả quyền bính trong nước thuộc về Nhân dân”. “Xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của Nhân dân”, “dựa trên khối đại đoàn kết của toàn dân tộc”. Những tư tưởng về một nhà nước lập hiến, dân chủ và tiến bộ đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo cơ sở nền móng cho việc xây dựng một nhà nước dân chủ kiểu mới của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân và sau này là Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

 

Đến Hội nghị Đại biểu giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng ta, lần đầu tiên thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền XHCN của Dân, do Dân, vì Dân” mới chính thức được đưa vào văn kiện của Đảng.

 

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện đại hội Đảng các khóa từ khóa VIII đến khóa XIII, các nghị quyết của Trung ương và Bộ Chính trị về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo ngày càng đầy đủ, sâu sắc và toàn diện hơn.

 

Đảng xác định: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị, phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong Nhà nước pháp quyền, các cơ quan nhà nước phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền, tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

 

2. Về bản chất, đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

 

Tổ chức và hoạt động của Nhà nước và trong đời sống xã hội

 

Dân chủ là bản chất của chế độ và của Nhà nước ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới.

 

Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân” (Điều 2 Hiến pháp 2013). Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. “Nhà nước thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ hơn về tất yếu khách quan phải đẩy mạnh phát triển các hình thức và phương thức thực hiện dân chủ nhất là các hình thức dân chủ trực tiếp của Nhân dân.

 

Đảng ta khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. “Tất cả quyền lực của Nhà nước thuộc về Nhân dân”. Dân là chủ và Dân làm chủ. Dân làm chủ Nhà nước, làm chủ xã hội và làm chủ chính bản thân mình.

 

Trong gần 40 năm qua, Đảng luôn chú trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về Nhà nước pháp quyền XHCN; đã có sự nhận thức thống nhất về bản chất và các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Những đặc trưng này vừa mang tính phổ quát của thế giới, vừa thể hiện được các đặc thù, riêng có của Việt Nam. Đó là:

 

- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo;

 

- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lựa Nhà nước thuộc về Nhân dân;

 

- Quyền con người, quyền công dân là giá trị cao cả của xã hội, được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật;

 

- Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật;

 

- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp;

 

- Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, hiện đại, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán và hiệu quả;

 

- Độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử; thẩm phán và hội thẩm độc lập chỉ tuân theo pháp luật;

 

- Tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, tuân thủ pháp luật quốc tế và thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam trên cơ sở bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc.

 

Như vậy, có thể nói xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là sự lựa chọn chính xác, đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta phù hợp với tình hình phát triển của nước ta và xu thế của thời đại.

 

 

Về chức năng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam 

 

Chức năng của Nhà nước là phương hướng hoạt động chủ yếu của Nhà nước, thể hiện bản chất, vai trò, sứ mệnh xã hội và mục tiêu của Nhà nước. Ở nước ta, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có hai chức năng cơ bản, đó là: Chức năng bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và chức năng tổ chức xây dựng; bảo đảm, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân. Để xây dựng và phát triển đất nước, phát triển kinh tế, xã hội Nhà nước phải sử dụng toàn bộ sức mạnh của mình, kể cả sức mạnh cưỡng chế, trấn áp để bảo vệ Tổ quốc, phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống lại mọi hành vi xâm phạm đến an ninh quốc gia, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xâm hại đến trật tự an toàn xã hội, xâm hại đến các quan hệ xã hội khác được pháp luật bảo vệ.

 

Đây là chức năng quan trọng và thiết yếu của Nhà nước. Thực hiện tốt chức năng này, Nhà nước sẽ tạo điều kiện và môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.

 

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có chức năng tổ chức và xây dựng, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân. Đây là chức năng tổng hợp, cơ bản, có tính quyết định của Nhà nước, bao gồm các nội dung:

 

- Tổ chức, xây dựng và quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, chủ động, tích cực, hội nhập quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo vệ môi trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

 

- Nhà nước xây dựng và từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường, thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước; thúc đẩy liên kết kinh tế vùng; bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân.

 

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có chức năng tổ chức, xây dựng và quản lý văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, y tế, thể dục, thể thao,…

 

Nhà nước xác định phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu, đổi mới cơ bản, toàn diện giáo dục; ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục.

 

Nhà nước xác định phát triển khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

 

Để bảo đảm phát triển bền vững, Nhà nước có chính sách bảo vệ môi trường, quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.

 

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có chức năng, vai trò quan trọng trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân. Ở nước CNXH Việt Nam các quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của Luật.

 

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có chức năng đối ngoại quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế, Nhà nước thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam làm thành viên; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc; góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

 

 

Về vai trò của pháp luật, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật

 

Công cuộc đổi mới đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, để đạt được những thành tựu đó, có vai trò rất quan trọng của hệ thống pháp luật.

 

Qua ba kỳ Đại hội gần đây, Đảng ta luôn xác định, xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế là một trong ba đột phá chiến lược. Nhà nước ta đã tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật đã được hoàn thiện một bước cơ bản.

Vai trò của pháp luật và việc thực thi pháp luật được chú trọng trong tổ chức và hoạt động của nhà nước và đời sống xã hội.

Pháp luật có vai trò to lớn, là công cụ hữu hiệu bảo đảm chủ quyền của nhân dân, bảo đảm bình đẳng, công bằng và tiến bộ xã hội. Ở nước ta, pháp luật là công cụ quan trọng để Nhân dân làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân; pháp luật là công cụ để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước.

 

Trong Nhà nước pháp quyền, pháp luật có vai trò quan trọng trong việc tôn trọng bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

 

Đối với nhà nước, pháp luật tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Nhà nước tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật. Quản lý nhà nước là một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, rộng lớn của nhà nước, đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật hoàn thiện đẩy đủ, đồng bộ và thống nhất.

 

Trong quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, pháp luật có vai trò quan trọng trong việc củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, phòng chống tội phạm, tham nhũng và vi phạm pháp luật.

 

Một số giải pháp và kiến nghị xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật

 

Trong giai đoạn tới, việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật vẫn là nhiệm vụ trọng tâm, là khâu đột phá của tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Nghị quyết số 27-NQ/TW khóa XIII của Đảng ta đã xác định mục tiêu từ nay đến 2030, tầm nhìn đến 2045 “phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, thống nhất, đồng bộ, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Tập trung hoàn thiện pháp luật trên tất cả các lĩnh vực, tháo gỡ kịp thời các khó khăn vướng mắc, khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”.

 

Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị, phát huy mạnh mẽ dân chủ XHCN, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xác định rõ mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội, ưu tiên phát triển giáo dục, khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; thu hút, trọng dụng nhân tài; quan tâm đầu tư phát triển văn hóa, thông tin truyền thông, thể thao, y tế, an sinh xã hội, lao động, việc làm, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn,… Tiếp tục hoàn thiện pháp luật bảo đảm, củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hội nhập quốc tế.

 

Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật.

 

Trong thời gian tới, cần quy định rõ hơn quy trình xây dựng chính sách, nhận định rõ hơn quy trình lập pháp, quy trình lập quy; xác định rõ hơn quyền lực và trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình xây dựng pháp luật. Đa dạng hóa nguồn pháp luật, hạn chế thấp nhất việc ban hành pháp lệnh, các nghị định độc lập, các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật.

 

Luật hóa tối đa các vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc hội. Thường xuyên rà soát, hệ thống hóa, pháp điển hóa văn bản quy phạm pháp luật.

 

Sớm khắc phục và xóa bỏ tư duy làm luật để thuận lợi cho cơ quan quản lý nhà nước, cho cán bộ, công chức vì “lợi ích nhóm”, “lợi ích ngành”, đẩy khó khăn cho người dân và doanh nghiệp; xây dựng pháp luật phải bảo đảm nguyên tắc pháp quyền, dân chủ, tiến bộ, nhân văn, công bằng, dễ tiếp cận, có cơ chế để phát huy được vai trò của Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể, các chuyên gia, nhà khoa học và nhất là vai trò của nhân dân trong quá trình xây dựng pháp luật.

 

Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin công nghệ số vào xây dựng và thực thi pháp luật. Chủ trọng công tác đào tạo, tập huấn cho cán bộ làm công tác xây dựng pháp lật và công tác pháp chế; bảo đảm đủ kinh phí và các điều kiện khác cho công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.

 

Tăng cường đẩy mạnh hợp tác quốc tế, trao đổi kinh nghiệm, thông tin về công tác xây dựng và thực thi pháp luật.

 

Xây dựng và hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ XHCN, quyền làm chủ, chủ quyền của nhân dây, xây dựng bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị tinh gọn, trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, bảo đảm nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật thị trường, tạo động lực để phát triển nhanh và bền vững, khắc phục những điểm nghẽn, cản trở sự phát triển của đất nước, hoàn thiện pháp luật về quốc phòng, an ninh để bảo vệ Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, hội nhập quốc tế. Do đó, pháp luật có vai trò rất quan trọng trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

 

Về hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

 

Bộ máy nhà nước là tổng thể các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc thống nhất, tạo thành cơ chế đồng bộ nhằm thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền lực của Nhà nước theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

 

Bộ máy nhà nước ở nước ta, theo quy trình của Hiến pháp năm 2013 gồm: Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập.

 

Trước hết phải khẳng định tư duy nhất quán của Đảng ta về nhà nước, đó là: “Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”’; “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”; “quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

 

Về Quốc hội, Cương lĩnh, các văn kiện của Đảng và Hiến pháp của nước ta đều khẳng định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao” (Điều 69 Hiến pháp 2013).

 

Theo Hiến pháp, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan duy nhất ở nước ta do Nhân dân (cử tri) cả nước bầu ra, theo nguyên tắc trực tiếp, tự do, dân chủ, phổ thông, đầu phiếu.

 

Quốc hội đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân cả nước.

 

Quốc hội không phải là cơ quan tập quyền, toàn quyền như trước đây, không phải là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp (như Hiến pháp năm 1980). Quốc hội không ngừng đổi mới và hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn theo hướng chuyên nghiệp, pháp quyền, dân chủ và hiện đại.

 

Đại biểu Quốc hội là trung tâm của Quốc hội, không ngừng được nâng cao về tiêu chuẩn và chất lượng. Tỷ lệ đại biểu quốc hội hoạt động chuyên trách được tăng đều theo từng khóa.

 

Chủ tịch nước là một thiết chế hiến định, có vị trí và vai trò quan trọng trong Nhà nước pháp quyền. Theo cương lĩnh, Văn kiện Đại hội Đảng và Hiến pháp năm 2013 thì Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nhà nước về đối nội, đối ngoại, thống lĩnh các lực lượng vũ trang, chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh. Như vậy, Chủ tịch nước không còn là một thiết chế tập thể như Hội đồng nhà nước trước đây (Theo Hiến pháp năm 1980).

 

Chính phủ theo Hiến pháp năm 2013 là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước CHXHCN VN thực hiện quyền hành pháp là cơ quan chấp hành của Quốc hội (Điều 94 Hiến pháp năm 2013)

 

Chính phủ gồm Thủ tướng, các phó Thủ tướng, các bộ trưởng và các Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ. Chính phủ tổ chức và hoạt động không phải như Hội đồng bộ trưởng trước đây.

 

Chính phủ tổ chức và hoạt động theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Chính phủ được tổ chức theo hướng tinh gọn, tổ chức các bộ đa ngành đa lĩnh vực, đề cao vai trò hành pháp của Chính phủ trong việc xây dựng, đề xuất chính sách, pháp luật, quản lý điều hành vĩ mô, quy hoạch, kế hoạch kiểm tra, thanh trừ bảo đảm tính thống nhất, thông suốt, kỷ luật, kỷ cương hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính quốc gia.

 

Tòa án nhân dân, viện kiểm soát nhân dân là những thiết chế hiến định có vị trí, vai trò quan trọng trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

 

Theo Hiến pháp năm 2013, Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước ta, thực hiện quyền tư pháp.

 

Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các tòa án khác do Luật định (Điều 102 Hiến pháp 2013).

Viện kiểm soát nhân dân thực hành việc công tố và kiểm soát hoạt động tư pháp (Điều 107 HP2013).

 

Tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân do Hiến pháp và Luật định.

 

Chính quyền địa phương là một thiết chế hiến định bao gồm hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân được tổ chức theo các đơn vị hành chính của nước ta phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Luật định.

 

Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương do pháp luật quy định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa TW và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương.

 

Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương được đổi mới và hoàn thiện, bảo đảm để Hội đồng nhân dân thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng, quyền làm chủ của nhân dân địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.

Ủy ban nhân dân là cơ quan do HĐND bầu ra là cơ quan chấp hành của HĐND là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.

 

Hội đồng bầu cử quốc gia, kiểm toán nhà nước do Quốc hội thành lập tổ chức và hoạt động theo quy định của hiến pháp, pháp luật.

 

Hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước pháp quyền XHCN VN đã có nhiều đổi mới hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển mới, Bộ máy nhà nước vẫn còn những tồn tại, bất cập, yếu kém và hạn chế nhất định. Bộ máy nhà nước cần tiếp tục được đổi mới, hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa và xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân trong giai đoạn mới.

 

Về quyền lực nhà nước thống nhất; cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước.

 

Về quyền lực nhà nước thống nhất. Quyền lực nhà nước thống nhất là vấn đề lý luận và thực tiễn. Cho đến nay vẫn chưa có sự nhận thực thống nhất cao về vấn đề này.

 

Vậy thế nào là quyền lực nhà nước thống nhất, quyền lực nhà nước thống nhất ở đây, ý nghĩa của quyền lực nhà nước thống nhất trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

 

Cương lĩnh các văn kiện đại hội của Đảng và Hiến pháp năm 2013 đều khẳng định: “Ở Việt Nam, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân”. Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước; Quyền lực nhà nước thống nhất là một thực thể thống nhất gồm ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Cả ba quyền này là những bộ phận độc lập nhưng lại có sự phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau để bảo đảm cho quyền lực nhà nước thống nhất thuộc về nhân dân.

Trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam các quyền này không phân lập, đối trọng, chế ước lẫn nhau như ở các nhà nước được tổ chức theo học thuyết “tam quyền, phân lập”.

 

Quyền lực nhà nước thống nhất nhưng không phải là tập quyền, tập trung vào một cơ quan, một nhánh quyền lực nào cả. Thông qua Hiến pháp, nhân dân ủy quyền, giao quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân và các cơ quan khác của nhà nước thực hiện. Đồng thời, nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước của mình như quyền phúc quyết hiến pháp, quyền trưng cầu ý dân quyền dân chủ trực tiếp ở cơ sở. Tính thống nhất của quyền lực nhà nước còn được xác định và bảo đảm bởi tính hệ thống của quyền lực nhà nước. Cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau nhưng đều thống nhất với nhau ở mục tiêu và nhiệm vụ chính trị chung là xây dựng một Nhà nước để bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ mọi mặt của nhân dân; thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.”

 

Trong chế độ dân chủ và pháp quyền XHCN Việt Nam thì quyền lực nhà nước không phải là quyền lực tự có của Nhà nước mà quyền lực được nhân dân ủy quyền, giao quyền cho các cơ quan khác nhau của Nhà nước thực hiện. Theo Hiến pháp năm 2013, Quốc hội được phân công thực hiện quyền lập hiến, lập pháp; quyết định các vấn đề quan trong của đất nước và giám sát tối cao hoạt động của Nhà nước.

 

Chính phủ được phân công là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.

 

Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử thực hiện quyền tư pháp.

 

Đây là nguyên tắc chỉ đạo cho việc xây dựng và thực hiện mô hình tổ chức bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; trong đó thống nhất là nền tảng còn phân công, phối hợp và kiểm soát là phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực nhà nước.

 

Việc phân công rành mạch, khoa học và hợp lý các quyền là cơ sở pháp lý cho việc thực hiện đúng thẩm quyền, cho việc phối hợp chặt chẽ và cũng là cơ sở cho việc kiểm soát hiệu quả quyền lực nhà nước, bảo đảm cho quyền lực nhà nước được thực thi đầy đủ, nghiêm chỉnh và thống nhất tránh nguy cơ lợi dụng, lạm dụng, tha hóa quyền lực nhà nước.

Kiểm soát quyền lực là một bước phát triển mới, là những đột phá trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta về xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền.

 

Kiểm soát quyền lực được thực hiện với cơ chế và phương thức khác nhau, song thông thường được thực hiện theo cơ chế kiểm soát bên trong của Bộ máy nhà nước, dùng quyền lực để kiểm soát quyền lực. Và cơ chế kiểm soát từ bên ngoài bộ máy nhà nước (từ các cơ quan Đảng, các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị kiểm soát từ nhân dân và các cơ quan báo chí, truyền thông.

 

3. Những tồn tại hạn chế và những vấn đề đặt ra trong nhận thức lý luận đường lối, chủ trương của Đảng ta về xây dựng nhà nước pháp quyền

 

Những tồn tại, hạn chế:

Công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định, có mặt chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Một số vấn đề lý luận chưa được luận giải một cách đầy đủ, thuyết phục.

- Tổ chức bộ máy nhà nước còn chưa tinh gọn; hiệu lực, hiệu quả hoạt động trên một số mặt còn như là hạn chế. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, lãng phí còn nghiêm trọng và phổ biến.

 

Bộ máy Chính phủ tuy đã giảm một số Bộ nhưng số lượng đầu mối bên trong từng bộ lại tăng lên. Cải cách hành chính vẫn còn chậm, thiếu đồng bộ chưa đáp ưng yêu cầu; Thủ tục hành chính còn phức tạp, phiền hà, chi phí hành chính cao, chưa thật rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân và người đứng đầu.

 

Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương chậm đổi mới, hiệu lực, hiệu quả hoạt động ở nhiều nơi chưa cao.

Vẫn còn nhận thức chưa thật đầy đủ và thống nhất về nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, về cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước.

 

Việc phân công giữa quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp có mặt còn chưa rõ và chưa hợp lý (ủy quyền lập pháp, quản lý hành chính, trật tự, tư pháp…)

 

Do phân công quyền lực chưa thật hợp lý nên dẫn đến việc xác định cơ chế phối hợp thiếu chặt chẽ, thiếu nhịp nhàng, trong những trường hợp không rõ trách nhiệm của cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp, một số trường hợp tạo ra khoảng trống quyền lực.

 

Việc phân cấp, phân quyền giữa Trung ương với địa phương vẫn còn nhiều hạn chế, chưa được thực hiện đồng bộ, triệt để theo yêu cầu đặt ra. Chưa xác định thật rõ những lĩnh vực cần tập trung phân cấp, phân quyền. Chưa bảo đảm điều kiện pháp lý, nguồn lực và làm rõ chế độ trách nhiệm trong việc phân cấp, phần quyền. Vẫn còn tình trạng khá phổ biến là cơ quan Trung ương điều hành, xử lý nhiều việc cụ thể của địa phương nhất là trong các lĩnh vực ngân sách, đầu tư công, phát triển quy hoạch, kế hoạch tổ chức bộ máy, biên chế, y tế, giáo dục.

 

Hệ thống pháp luật vẫn chưa thật đầy đủ, đồng bộ và thống nhất vẫn còn nhiều quy định mâu thuẫn, chồng chéo, sơ hở, thiếu tính khả thi, chưa kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc cho người dân, doanh nghiệp, chưa tạo động lực cho đổi mới sáng tạo.

 

Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra:

 

Thứ nhất, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là một vấn đề mới, vấn đề khó, phức tạp, chưa có tiền lệ ở nước ta.

 

Nhiều vấn đề lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa được nghiên cứu một cách hệ thống, luận giải thấu đáo như: vấn đề Đảng cầm quyền trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; về quyền lực nhà nước thống nhất có sự phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội, vị trí, vai trò của Chủ tịch nước: là nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu nhà nước thay mặt nhà nước về đối nội, đối ngoại trong mối quan hệ với Quốc hội (lập pháp), Chính phủ (hành pháp), tòa án (tư pháp) về cơ chế bảo hiến chuyên trách hay là cơ chế bảo hiến chung như hiện nay; vấn đề quyền dân chủ trực tiếp, quyền lực trực tiếp của nhân dân trong lập hiến, trưng cầu dân ý…, vấn đề độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, tổ chức tòa án không theo đơn vị hành chính lãnh thổ, hội đồng tư pháp quốc gia…, vị trí, vai trò, chức năng của viện kiểm sát nhân dân trong Nhà nước pháp quyền (vấn đề thành lập viện công tố thuộc Chính phủ, kiểm sát hoạt động xét xử của viện kiểm sát nhân dân, vấn đề thống nhất cơ quan thi hành án, xã hội hóa một số hoạt động tư pháp…

 

Thứ hai, công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, hoàn thiện lý luận chưa được quan tâm đúng mức, quyết tâm chính trị, công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của một số cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền chưa đáp ứng yêu cầu đề ra.

 

Thứ ba, chưa xác định rõ việc giáo dục ý thức, tinh thần thượng tôn Hiến pháp và nhất là một trong những phẩm chất cốt lõi của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Điều này dẫn đến chưa hình thành được đầy đủ ý thức và thói quen thượng tôn pháp luật trong thi hành công vụ và trong đời sống xã hội.

 

4. Một số đề xuất, kiến nghị về việc tiếp tục đổi mới xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

 

Thứ nhất, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

 

Thứ hai, có cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; tôn trọng bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Từ nay đến năm 2030, phải thể chế hóa đầy đủ và thực hiện hiệu quả cơ chế nhân dân thực hiện quyền làm chủ, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Nội luật hóa các công ước, điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta là thành viên. Thực hiện nguyên tắc quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật. Công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm.

 

Ban hành luật quy định về quyền dân chủ cơ sở của công dân; nhân dân thực hiện quyền phúc quyết Hiến pháp, quyền trưng cầu ý dân. Sử đổi Luật bầu cử Đại biểu Quốc hội để đổi mới cơ chế bầu cử; nghiên cứu việc bỏ phiếu của công dân Việt Nam ở nước ngoài.

 

Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật, xác định việc xây dựng và hoàn thiện thể chế vẫn là nhiệm vụ trọng tâm, là khâu đột phá trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phải thực hiện đúng mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp được nêu ra trong Nghị quyết 27-NQ/TW khóa XIII về hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đổi mới tư duy lập pháp, lấy quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo.

 

Thứ tư, tiếp tục đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội.

 

Thứ năm, tiếp tục thực hiện tốt thiết chế Chủ tịch nước theo quy định của Hiến pháp. Tiếp tục nghiên cứu, làm rõ hơn vị trí, vai trò Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại, thống lĩnh lực lượng vũ trang, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng, An ninh. Quy định Chủ tịch nước có quyền có ý kiến (giám sát) đối với dự án luật đã được Quốc hội thông qua trước khi Chủ tịch nước công bố để bảo đảm tính hợp hiến.

 

Thứ sáu, tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa phương; xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả.

 

Thứ bảy, xây dựng nền tư pháp dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính; hoàn thiện cả pháp luật nội dung và pháp luật hình thức (tố tụng) về tư pháp.

 

Thứ tám, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự kiểm soát chặt chẽ và hiệu quả các cơ quan, cán bộ, công chức thực thi quyền lực nhà nước.

 

Thứ chín, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và nhân dân trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.

 

TS. Uông Chu Lưu

Nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội

 

Tag:

File đính kèm