70 năm đã trôi qua, Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là kết quả hợp thành của nhiều yếu tố; một trong những yếu tố đó là sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chọn Điện Biên Phủ làm nơi quyết chiến chiến lược; điểm đúng huyệt hiểm yếu nhất của quân Pháp; kiên quyết chỉ đạo, lãnh đạo toàn quân, toàn dân ta tập trung sức mạnh tổng hợp, đập tan cứ điểm phòng ngự mạnh nhất của thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ, đây là nhân tố quyết định, thể hiện bản lĩnh và tài thao lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm chống thực
dân Pháp xâm lược.
|
1. Nắm chắc tình hình địch, sớm có chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược đúng đắn, sáng tạo
Bước vào thu - Đông năm 1953 để cứu vãn tình thế thất bại ở Đông Dương, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đã cho ra đời Kế hoạch Nava tăng viện lớn về binh lực và chi phí chiến tranh, mưu toan trong vòng 18 tháng sẽ tiêu diệt phần lớn bộ đội chủ lực của ta, kiểm soát lãnh thổ Việt Nam và bình định cả Nam Đông Dương. Kế hoạch Nava là nỗ lực cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ nhằm giành lại thế chủ động có tính quyết định về quân sự trên chiến trường, làm cơ sở cho một giải pháp chính trị có lợi cho chúng. Để đạt được mục tiêu đó, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã lập kế hoạch đến năm 1954 quân chủ lực Pháp sẽ lên tới 7 sư đoàn cơ động chiến lược, với 27 binh đoàn được trang bị hiện đại tạo thành quả đấm thép trên chiến trường Việt Nam và Đông Dương.
Trước những âm mưu, thủ đoạn hoạt động của thực dân Pháp, ngày 09/11/1953, Bộ Chính trị họp và ra Chỉ thị “Về tích cực chuẩn bị phá âm mưu địch đánh ra vùng tự do” do tổng Bí thư trường Chinh ký. Chỉ thị nêu rõ: “Việc phục vụ tiền tuyến và việc chuẩn bị để phá âm mưu địch đánh ra vùng tự do là hai nhiệm vụ chiến lược trọng yếu cấp thiết hơn hết và quan hệ mật thiết với nhau. Do đó, trong việc phân phối lực lượng, phân phối cán bộ, khi địch chưa đánh ra, nếu gặp khó khăn phải đặt việc phục vụ tiền tuyến lên trên hết”(1).
|
Đồng chí Phan Đình Trạc, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương và Đoàn công tác thăm Khu tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ (ảnh Đặng Phước) |
Ngày 06/12/1953, sau khi phân tích kỹ tình hình trong nước và quốc tế, âm mưu của thực dân Pháp, đánh giá rõ tình hình địch - ta trên các chiến trường và thời cơ chiến lược, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh Quân đội, Bí thư Tổng Quân ủy đã được chỉ định trực tiếp làm Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Chiến dịch. Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch Hội đồng cung cấp mặt trận Trung ương. Đồng chí Trần Đăng Ninh phụ trách các vấn đề về đường sá và cung cấp của chiến dịch đã lên đường ra mặt trận”(2). Với tầm nhìn chiến lược, trong “chỉ đạo kháng chiến và chính sách quân sự”, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Phải tăng cường công tác chính trị, luôn luôn nâng cao trình độ chính trị và giác ngộ giai cấp của bộ đội ta; phải bảo đảm sự chấp hành chính sách của Đảng và Chính phủ; phải triệt để giữ gìn kỷ luật tự giác về mặt quân sự và về mặt chính trị. Vì vậy, cần phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong Quân đội và phải thực hiện dân chủ trong bộ đội”(3).
2. Bài học về sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo của đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Chiến dịch lịch sử Điện Biên phủ
Chiến thắng vĩ đại của Chiến dịch Điện Biên Phủ đã ghi vào lịch sử dân tộc ta như một mốc son rực sáng nhất, nổi bật nhất; ta có thể rút ra mấy bài học quý về sự lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Một là, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm phân tích, đánh giá đúng âm mưu, thủ đoạn xâm lược của thực dân Pháp. Đây là nét độc đáo, sáng tạo của sự lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau khi nghe Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bí thư Tổng Quân ủy trình bày phương án tác chiến và ý định của tổng Quân ủy, Bộ Chính trị xác định chủ trương tác chiến trong Đông Xuân 1953-1954 là: Sử dụng một bộ phận chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng quan trọng về chiến lược mà lực lượng của địch tương đối yếu, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực của chúng, đồng thời, buộc chúng phải bị động phân tán lực lượng đối phó với ta trên những địa điểm xung yếu mà chúng không thể bỏ. Phương châm chiến lược là “tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”(4). “Ý định tác chiến chiến lược của ta là “tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu” để phân tán lực lượng địch và tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng tự do. Như thế để tạo điều kiện hoàn toàn giải phóng Bắc Bộ”(5). Do phương hướng chiến lược này, “Quân đội ta phải đánh địch ở những nơi địch sơ hở, đồng thời phải hoạt động mạnh sau lưng địch. Bất kỳ ở miền núi hay đồng bằng, Quân đội ta phải chuẩn bị đánh những lực lượng, những cứ điểm ngày càng mạnh của địch”(6). Đó là quyết sách cực kỳ quan trọng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo toàn quân, toàn dân ta chủ động tiến lên đánh địch ở cả vùng rừng núi và đồng bằng, giành những thắng lợi quyết định. Theo đó, quân và dân ta trên khắp các địa bàn, nhất là ở đồng bằng Bắc Bộ, chủ động đẩy mạnh các hoạt động tác chiến làm cho địch không những không thể thực hiện được kế hoạch đã vạch ra, mà còn lâm vào thế bị động đối phó. Các hoạt động của Quân đội ta trên các chiến trường đã thực hiện phù hợp với ý định của Bộ Chính trị và Bộ tổng chỉ huy, buộc địch phải phân tán lực lượng cơ động ra các hướng chiến trường: Đồng bằng Bắc Bộ, Tây Bắc, Điện Biên Phủ, trung Lào, Pleiku, Nam tây Nguyên và thượng Lào. Như vậy, Bộ chỉ huy của Đại tướng Nava đã buộc phải hành động theo ý định của ta, họ đã để mất đi khả năng tăng cường lực lượng cho chiến trường chính - Điện Biên Phủ.
Hai là, nét độc đáo về sự lãnh đạo, chỉ đạo tạo và nắm thời cơ, giành thắng lợi quyết định trong trận quyết chiến chiến lược. Khi tướng Nava và bộ chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp cho quân ồ ạt nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, xây dựng phòng tuyến Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Để tạo và nắm thời cơ giành thắng lợi, Bộ Chính trị và Bộ tổng chỉ huy của ta với tầm nhìn chiến lược đã chuyển hướng chiến lược tiến hành bao vây Điện Biên Phủ, buộc bộ chỉ huy quân Pháp phải điều động hầu hết lực lượng chủ lực ra tăng cường. Cùng với nghệ thuật tạo và nắm thời cơ, ta bí mật tiến công lên tây Bắc, tạo thế bất ngờ, đẩy mạnh chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch; đồng thời nắm thời cơ khi địch sơ hở, nơi địch tương đối yếu mà đánh, kiên quyết buộc địch phải phân tán, bị động đối phó, ta kết hợp tiêu diệt sinh lực địch, vừa đánh địch, vừa bồi dưỡng lực lượng ta.
Theo phương hướng chiến lược và tư tưởng chỉ đạo tác chiến chiến lược đã được xác định, ta sử dụng một số đơn vị chủ lực nhỏ, tinh nhuệ mở các cuộc tiến công trên các hướng quan trọng đánh vào các nơi địch mỏng, yếu, có nhiều sơ hở, nhưng lại có vị trí chiến lược mà địch không thể bỏ qua. Trước nguy cơ bị uy hiếp ở những hướng, những khu vực chiến lược, buộc địch phải phân tán điều động tới 70 tiểu đoàn trong tổng số 80 tiểu đoàn cơ động ra các chiến trường trên toàn Đông Dương. Ta đã thành công trong việc điều động phân tán địch. Chọn Điện Biên Phủ là chọn hướng, chọn thời cơ, địa bàn mục tiêu chính xác cho cách đánh của quân ta.
Ba là, sự lãnh đạo, chỉ đạo sắc bén về tập trung lực lượng giành thắng lợi trong trận quyết chiến chiến lược. Khi quân Pháp đã xây dựng khu vực lòng chảo Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương; với 49 cứ điểm hình thành ba khu vực phòng ngự liên hoàn, từng cứ điểm có hệ thống lô cốt, chiến hào, hầm ngầm kiên cố với hệ thống hỏa lực mạnh, được tổ chức thành nhiều cụm cứ điểm - “trung tâm đề kháng theo kiểu phức tạp” vừa có khả năng phòng ngự độc lập khá mạnh, vừa tạo thế phòng ngự liên hoàn thành nhiều tầng, nhiều hướng khó chia cắt, tập đoàn cứ điểm còn có sân bay, kho tàng, lại được liên kết chặt chẽ, tổ chức thành ba phân khu: Phân khu phía Bắc gồm cứ điểm vòng ngoài là đồi Độc Lập, đồi Bản Kéo; phân khu trung tâm Mường Thanh, Điện Biên Phủ; phân khu phía nam là Hồng Cúm. Ngoài ra, còn có hệ thống hỏa lực mặt đất và trên không rất mạnh gồm hai tiểu đoàn pháo 105 ly, một đại đội pháo 155 ly, hai đại đội súng cối 120 ly, tổng cộng khoảng 40 nòng pháo và súng cối từ 100 ly trở lên, vì vậy, Điện Biên Phủ được mệnh danh là “Pháo đài bất khả xâm phạm”. Lần đầu tiên trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, hơn năm mươi măm ngày đêm, ta đã tập trung được một lực lượng hùng mạnh chưa từng có, đạt được ưu thế áp đảo quân địch, ta tổ chức 4 đại đoàn bộ binh chủ lực (304, 308, 312, 316 và 1 đại đoàn sơn pháo). So với các chiến dịch trước đó ta mới chỉ sử dụng từ 1 đến 2 đại đoàn bộ binh và một đại đoàn công pháo, thì Điện Biên Phủ ta tổ chức, sử dụng và bố trí một lực lượng lớn nhất với chất lượng cao nhất trong toàn bộ cuộc kháng chiến.
Quyết định tiến công Điện Biên Phủ thực hiện đòn quyết chiến chiến lược tại đây không những thể hiện nét đặc sắc của nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh, tạo và nắm thời cơ đánh vào một cứ điểm mạnh của địch. Tiến công Điện Biên Phủ, đã phát huy được sức mạnh, sở trường của ta, hạn chế được sức mạnh, khoét sâu điểm yếu chí tử của địch. Mặc dù Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của quân viễn chinh Pháp, song cách xa hậu phương, dễ bị cô lập, việc ứng cứu, chi viện, giải toả chỉ tiến hành bằng đường không. Về phía ta, lại phát huy được khả năng về lực lượng, phương tiện do tác chiến ở địa hình rừng núi. Chính La-ni-en, thủ tướng Pháp đã phải thừa nhận: “... Kẻ địch với việc điều quân cơ động tài tình, đã buộc chúng ta (chỉ quân Pháp) phải giao chiến ở Điện Biên Phủ, một cuộc giao tranh với tầm quan trọng như vậy... Bộ chỉ huy đã phạm sai lầm ở chỗ tưởng rằng đã thu hút được địch thủ đến một mặt trận mà ưu thế của chúng ta sẽ bảo đảm thắng lợi, trong khi ngược lại, chính đối phương đã lựa chọn địa thế đó”(7).
Bốn là, sự lãnh đạo, chỉ đạo phương châm tác chiến phù hợp, chuyển từ phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Đây là bài học kinh nghiệm quí giá nhất quyết định trực tiếp đến thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ. từ nghiên cứu, đánh giá tình hình thực tế và so sánh tương quan lực lượng địch, ta trên chiến trường, Bộ tư lệnh chiến dịch đã cân nhắc và rất khó khăn mới đưa ra quyết định chuyển từ phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”.
Ngày 05/01/1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp lên đường ra mặt trận cùng với bộ phận cơ quan chỉ huy chiến dịch. Trước khi lên đường, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn Đại tướng về những trở ngại trong việc chỉ đạo các chiến trường khác khi ở xa Trung ương. Người nhấn mạnh: “Trận này rất quan trọng, phải đánh thắng. Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng, không đánh”(8). Trong quá trình chuẩn bị và nghiên cứu cách đánh, Bộ Tư lệnh chiến dịch nhận thấy địch đã củng cố, xây dựng nơi đây thành tập đoàn cứ điểm mạnh nên ta không thể “đánh nhanh, giải quyết nhanh”. Vì thế, Bộ tư lệnh Chiến dịch đã kịp thời chuyển phương châm tác chiến sang “đánh chắc, tiến chắc”.
Với nét độc đáo, sáng tạo của sự lãnh đạo, chỉ đạo: Đánh chắc, tiến chắc được thực hiện theo lối đánh gần độc đáo. Đó là cách đánh của nghệ thuật quân sự Việt Nam được thể hiện theo cách: Vây, lấn, tấn, diệt, chia cắt quân địch để có điều kiện tiêu diệt nhiều sinh lực của chúng. thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về “đánh chắc, tiến chắc”, quân ta đã thực hiện bao vây, chia cắt từng bộ phận, tiêu diệt từng cứ điểm, cụm cứ điểm ngoại vi, trước hết là trên các điểm cao khống chế phía Bắc, rồi phía Đông, đánh chắc “bóc vỏ” từ ngoài vào, từng bước mở đường tiến xuống cánh đồng Mường thanh, bao vây, tiếp cận và uy hiếp ngày càng sâu, càng mạnh vào trung tâm phòng ngự của địch; cuối cùng dứt điểm bằng cuộc tập trung lực lượng tổng công kích vào phân khu trung tâm của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, giành thắng lợi hoàn toàn. Để đánh chắc, tiến chắc ta bố trí thế trận vững chắc, hiểm hóc, liên hoàn bám sát, đánh gần, quân ta không chỉ “vây chặt, khóa chắc” địch, mà còn hạn chế đến mức thấp nhất việc phát huy thế mạnh của địch là quân số đông, hỏa lực mạnh, công sự vững chắc và khoét sâu chỗ yếu lớn nhất của chúng là ở vào thế bị cô lập, gặp nhiều khó khăn về tiếp tế, tăng viện, từ đó dù cho địch biết trước thất bại mà không có biện pháp nào có thể ứng cứu giải tỏa. Đây là nét độc đáo của nghệ thuật “đánh chắc, tiến chắc” tiêu diệt từng bộ phận quân địch, đập vỡ từng cứ điểm phòng ngự của địch ở Điện Biên Phủ.
Năm là, để bảo đảm cho Chiến dịch Điện Biên Phủ chắc thắng, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các Bộ, ban, ngành, địa phương hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Ngày 08/02/1954, Bộ Chính trị ra chỉ thị cho tổng Quân ủy, các liên khu ủy và khu ủy động viên Quân đội và nhân dân chủ động đánh địch và tăng cường cung cấp lương thực, thực phẩm, đạn dược cho các mặt trận đánh địch. Bộ Chính trị nêu rõ nhiệm vụ của Đảng ủy các cấp “cần phải nhận rõ chủ trương quân sự của trung ương, phải đặt nhiệm vụ tác chiến và phục vụ tiền tuyến là nhiệm vụ trung tâm thứ nhất trong mọi công tác lúc này và phải quyết tâm huy động nhân lực, vật lực để phục vụ chiến dịch. Đồng thời, kết hợp chặt chẽ việc phục vụ tiền tuyến với việc phát động quần chúng giảm tô, cải cách ruộng đất và việc tăng gia sản xuất”(9). Tiếp đó, ngày 22/02/1954, trong Chỉ thị ra sức phá tan mưu mô đẩy mạnh chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ, Bộ Chính trị nhấn mạnh: “Công tác trung tâm trước mắt của toàn thể quân và dân ta là tập trung lực lượng đánh thắng địch trong những trận sắp tới, tiêu diệt nhiều sinh lực địch hơn nữa, làm cho kế hoạch Nava của Pháp - Mỹ phải hoàn toàn thất bại. Kiên quyết động viên nhân lực, vật lực theo Chỉ thị số 61-CT/TW, ngày 08/02/1954 để thắng giặc, vì thắng lợi lớn của ta trong chiến dịch này sẽ có ý nghĩa rất quan trọng về quân sự và chính trị”(10). Ngày 11/3/1954, trong khi toàn mặt trận Điện Biên Phủ đang khẩn trương hoàn tất các công việc chuẩn bị cho giờ nổ súng mở màn chiến dịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư động viên và căn dặn cán bộ, chiến sĩ: Các chú sắp ra trận. Nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn, khó khăn, nhưng rất vinh quang.
Chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ, đánh bại ý chí xâm lược của thực dân Pháp, đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đấu tranh ngoại giao của Chính phủ ta, buộc Pháp phải ký hiệp định Giơ-ne-vơ rút hết quân về nước, chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược kéo dài ở Đông Dương. Chiến thắng Điện biên Phủ mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, đánh dấu bước phát triển mới trong chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc của nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH.
Bảy mươi năm đã trôi qua, lịch sử thế giới vẫn và sẽ tiếp tục ghi nhận ý nghĩa to lớn của chiến thắng Điện Biên Phủ. Những bài học kinh nghiệm quý báu về sự lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong chiến dịch Điện Biên Phủ đến nay vẫn nguyên giá trị; là cơ sở quan trọng để nhân dân ta tiếp tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.
(1) Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG, H.2001, t.14, tr.354.
(2) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Lịch sử quân sự Việt Nam, Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. CTQG, H.2014, t.10, tr.89-90.
(3) Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb. CTQG, H.2011, t.11, tr.365.
(4) Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ, Nxb. Sự thật, H.1958, tr.12.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. CtQG, H.1998, t.14, tr.130.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. CTQG, H.1998, t.14, tr.130.
(7) Việt Nam - Điện Biên Phủ: Bản anh hùng ca thời đại, Nxb. Sự thật, H.1984, tr.100-103.
(8) Võ Nguyên Giáp: Tổng tập hồi ký, Nxb. Quân đội nhân dân, H.2018, tr.900.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.15, 32.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.32.
|
Thượng Tướng, TS. Lê Huy Vịnh
(Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng)