Sign In

Bảo đảm độc lập của tòa án nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới

17:13 04/05/2023
Độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là điều kiện để thực hiện pháp luật công bằng, nghiêm minh, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân, duy trì và bảo vệ công lý.

    Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị Ban Chấp hành trung ương lần thứ 6 (khóa XIII) về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới khẳng định 08 đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đây là một điểm mới, nổi bật của Nghị quyết lần này khi lần đầu tiên Đảng ta xác định thống nhất, đầy đủ, rõ ràng về các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong một Nghị quyết của trung ương trên cơ sở Cương lĩnh, Hiến pháp và Văn kiện Đại hội Đảng các nhiệm kỳ, phù hợp với những đặc trưng, giá trị phổ quát của nhà nước pháp quyền đã được thế giới công nhận, đồng thời thể hiện được tính đặc thù của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Bao gồm: (1) Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. (2) Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. (3) Quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật. (4) Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật (5) Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. (6) Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán. (7) Độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. (8) tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

    Trong đó đặc trưng thứ Bảy là một trong những đặc trưng cốt lõi, được thừa nhận rộng rãi, như một giá trị không thể thiếu của nhà nước pháp quyền. Độc lập của tư pháp được hiểu ở ba mức độ: Vị trí độc lập của quyền tư pháp trong tương quan với quyền lập pháp và quyền hành pháp; sự độc lập giữa các tòa án bên trong hệ thống của mình; sự độc lập của các thẩm phán khi xét xử. Còn đối với Việt Nam, nội hàm của đặc trưng thứ Bảy thể hiện: Sự độc lập của tòa án là sự độc lập giữa các tòa án bên trong hệ thống của mình; độc lập của thẩm phán và hội thẩm khi xét xử, nghiêm cấm mọi sự can thiệp vào hoạt động xét xử; độc lập trong khuôn khổ quyền lực nhà nước là thống nhất do Đảng lãnh đạo. Xét xử của tòa án chính là hình thức thực hiện quan trọng nhất và mang tính chất phổ quát nhất của quyền tư pháp.
 
    Xét xử là việc đưa ra các phán quyết và yêu cầu cao nhất của nó là tính khách quan với mục đích đem lại công lý, công bằng cho xã hội. tính khách quan thể hiện ở việc khi xét xử, tòa án không thiên vị bất cứ ai và mọi người bình đẳng trước pháp luật. tính khách quan là yêu cầu của hoạt động xét xử, còn tính độc lập là điều kiện để thực hiện yêu cầu đó. Trong cơ chế quyền lực nhà nước, tòa án nhân dân được phân công một cách minh bạch thực hiện quyền tư pháp, quyền xử lý các vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp và quyết định về một số quyền con người, quyền công dân; có sự phối hợp hợp lý, phù hợp theo bản chất tư pháp với các cơ quan lập pháp, hành pháp trong hoạt động của mình; có chức năng kiểm soát và chịu sự kiểm soát trong việc thực hiện quyền tư pháp của mình. Sự lãnh đạo của Đảng với quyền tư pháp nhằm bảo đảm tính thống nhất của quyền lực nhà nước, bảo đảm tính khách quan, công bằng của hoạt động tư pháp.
 
    Thẩm phán, hội thẩm độc lập không có nghĩa họ không bị kiểm soát; “độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật”  là hai nội dung có mối quan hệ chặt chẽ với nhau; “độc lập” là điều kiện cần thiết để thẩm phán và hội thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật, còn “chỉ tuân theo pháp luật” là cơ sở không thể thiếu để thẩm phán và hội thẩm độc lập xét xử nhưng không thể tuỳ tiện trong phán quyết của mình. Nếu chỉ “độc lập” mà không “tuân theo pháp luật” thì dễ dẫn đến xét xử tùy tiện, chủ quan, độc đoán. Bên cạnh đó, độc lập xét xử không có nghĩa thẩm phán, hội thẩm không phải chịu trách nhiệm về phán quyết của mình. Bởi lẽ, khách quan, công bằng, công lý mới là mục đích của việc xét xử mà độc lập xét xử chỉ là điều kiện để thực hiện. Độc lập của thẩm phán khi xét xử đòi hỏi thẩm phán có trách nhiệm trước pháp luật và với chính lương tâm của mình. Để bảo đảm độc lập của thẩm phán và hội thẩm đòi hỏi thiết kế và vận hành mô hình tổ chức tòa án phải là một phương thức để thẩm phán và hội thẩm độc lập xét xử. Một trong những yêu cầu bảo đảm tính độc lập là: (1) Mối quan hệ giữa các tòa án các cấp là mối quan hệ tố tụng. Điều này có nghĩa tòa án cấp trên có thẩm quyền tố tụng xem xét lại quyết định của tòa án cấp dưới theo thẩm quyền và trình tự mà pháp luật quy định; sự độc lập của tòa án theo chiều dọc được thể hiện ở chỗ tòa án phải được thiết kế theo cấp xét xử. (2) Mối quan hệ giữa các tòa án các cấp không phải là mối quan hệ hành chính được phân cấp, bởi lẽ đặc trưng của quan hệ hành chính là mệnh lệnh phục tùng, nên nếu có các mối quan hệ này thì tòa án cấp dưới không tránh khỏi sự lệ thuộc vào tòa án cấp trên mà sự lệ thuộc đó không mang tính tố tụng. Chính vì vậy, không “hành chính hóa” mối quan hệ tố tụng giữa tòa án các cấp là một trong các yêu cầu để bảo đảm tòa án độc lập xét xử.
 
    Thời gian qua, việc bảo đảm sự độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có những chuyển biến tích cực trên nhiều khía cạnh: tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân có nhiều đổi mới quan trọng, bước đầu kết hợp tổ chức tòa án theo cấp xét xử với tổ chức tòa án theo đơn vị hành chính; tiêu chuẩn thẩm phán được nâng cao; nhiệm kỳ bổ nhiệm được kéo dài hơn… tòa án nhân dân được tổ chức theo 04 cấp thay vì 03 cấp như trước đây; thẩm quyền của tòa án nhân dân các cấp được xác định rõ ràng, cụ thể hơn; tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ phát triển án lệ; thẩm quyền xét xử của tòa án đối với các vụ án hình sự, hành chính, dân sự và thẩm quyền của tòa án nhân dân cấp huyện được mở rộng; tranh tụng trong xét xử bảo đảm, việc tổ chức phiên tòa, thủ tục hành chính tư pháp được đổi mới, tăng tính dân chủ, minh bạch, hiệu quả và bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia; đội ngũ cán bộ, công chức, đặc biệt là đội ngũ thẩm phán, thẩm tra viên, thư ký tòa án được nâng cao cả về chất lượng và số lượng.
 
    Tuy nhiên, thực tiễn vẫn còn cho thấy, nhận thức lý luận về tư pháp, cải cách tư pháp chưa đầy đủ, toàn diện, hệ thống: Một số vấn đề cốt lõi của tư pháp, của cải cách tư pháp như quyền tư pháp, cơ quan tư pháp, hệ thống tư pháp, độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật chưa được nhận thức một cách thống nhất và đầy đủ, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện cải cách tư pháp và hiệu quả giám sát quyền lực nhà nước trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử không phụ thuộc vào đơn vị hành chính nhưng chưa được thực hiện đầy đủ; cơ chế bảo đảm độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật chưa hoàn thiện. Đội ngũ cán bộ, công chức tòa án còn thiếu; chế độ chính sách chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ; kinh phí, cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của tòa án; quản trị tòa án còn bất cập. Vai trò của Hội đồng tuyển chọn, giám sát thẩm phán quốc gia chưa thật sự rõ ràng, chưa đạt hiệu quả cao như kỳ vọng, nhất là trong việc miễn nhiệm, cách chức thẩm phán; chưa có chế tài để bảo đảm thực hiện quy định của Hiến pháp về nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán, hội thẩm. Cơ chế kiểm sát hoạt động xét xử có mặt chưa thực sự phù hợp…
 
    Nghị quyết 27-NQ/tW đặt ra mục tiêu cụ thể đến năm 2030: Hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Nghị quyết cũng đề ra 03 trọng tâm mang tính chiến lược cần tập trung thực hiện, trong đó trọng tâm thứ ba là “Đẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Nghị quyết đề ra 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp, trong đó có nhiệm vụ, giải pháp (7) Xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân. Để bảo đảm độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, cần phải có những yếu tố nhất định, đó là: tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước; tổ chức hệ thống tòa án; quản trị tòa án, bảo đảm hoạt động tư pháp, địa vị, năng lực, sự liêm chính của thẩm phán; pháp luật tố tụng và thực hiện mối quan hệ tố tụng tư pháp; yếu tố thuộc về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân; sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp.
 
    Chính vì vậy, Nghị quyết 27-NQ/TW đã đề ra nhiệm vụ: Hoàn thiện cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý mọi hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tư pháp; bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật... Đổi mới và nâng cao hiệu quả cơ chế nhân dân tham gia xét xử tại tòa án... Nghị quyết lần này chưa đặt vấn đề tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính như đã nêu tại Nghị quyết 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005, Kết luận số 79-KL/TW, ngày 28/7/2010 và Kết luận 92-KL/TW, ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị nhưng đã xác định rõ nhiệm vụ: Hoàn thiện cơ chế để khắc phục tình trạng quan hệ giữa các cấp toà án là quan hệ hành chính, bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử và độc lập của thẩm phán, hội thẩm khi xét xử. Phân định rõ nhiệm vụ xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm… trên cơ sở đó, Kế hoạch số 11-KH/TW, ngày 28/11/2022 của Bộ Chính trị về triển khai thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW đã phân công nhiệm vụ cho Ban cán sự đảng tòa án nhân dân tối cao: Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng Đề án hoàn thiện cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý mọi hành vi can thiệp sai trái trong hoạt động tư pháp; Đề án hoàn thiện cơ chế quản trị tòa án, bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử và độc lập của thẩm phán, hội thẩm khi xét xử; Đề án xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực của cơ quan thực hiện quyền tư pháp đối với các cơ quan thực hiện quyền hành pháp, quyền lập pháp.
 
    - Thực hiện tốt độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử sẽ góp phần tạo điều kiện thực hiện tốt hơn nguyên tắc “phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” đã được hiến định. Hiến pháp năm 2013 quy định, Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Thực tế hiện nay, trong quan hệ với lập pháp và hành pháp, tư pháp nói chung và toà án nói riêng ở vị thế yếu hơn. Tòa án chịu sự giám sát của cơ quan dân cử và chịu nhiều ảnh hưởng từ cơ quan hành pháp. Điều này có nghĩa trong cơ chế hiện nay, yếu tố kiểm soát quyền lực nhà nước chưa được nhìn nhận đầy đủ dưới góc độ tòa án. Độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử là một trong những điều kiện cần và đủ để tòa án có vị trí, vai trò đúng đắn hơn trong mối quan hệ với hai nhánh quyền lực còn lại. Trong việc cụ thể hóa cơ chế kiểm soát quyền lực, tòa án cần xác định rõ vị trí pháp lý của mình và cần đóng vai trò mạnh mẽ hơn trong kiểm soát hoạt động của lập pháp và hành pháp. Chọn lọc một số kinh nghiệm phù hợp của thế giới về cơ chế tư pháp giám sát để Việt Nam có thể nghiên cứu khi gắn nguyên lý về độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử với việc cụ thể hoá cơ chế kiểm soát quyền lực. Do vậy, hiện thực hóa cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước cũng là yêu cầu đặt ra đối với việc nâng cao hiệu quả bảo đảm độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử. Thực tế hiện nay, quy định pháp luật về phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực có nội dung chưa cụ thể, chưa rõ; còn tình trạng phân công nhưng chưa rành mạch hoặc trùng lắp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ; cơ chế phối hợp trong tổ chức quyền lực chưa rõ ràng, hợp lý; cơ chế kiểm soát quyền lực chưa đầy đủ, chặt chẽ. Chưa có cơ chế phát huy vai trò của tư pháp trong kiểm soát đối với quyền lập pháp. thẩm quyền của tòa án trong việc bảo đảm tuân thủ Hiến pháp và pháp luật trong thực thi công vụ của các cơ quan nhà nước khá hạn chế (chủ yếu dừng ở thẩm quyền tài phán hành chính đối với các hành vi hành chính và quyết định hành chính cá biệt do các cơ quan từ cấp Bộ trở xuống ban hành). Do đó, Nghị quyết 27-NQ/TW đã xác định “Hoàn thiện cơ chế thực thi quyền lực nhà nước, xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của mỗi cơ quan và mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực bên trong mỗi cơ quan và giữa các cơ quan nhà nước, giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương và giữa các cơ quan trong cùng một cấp chính quyền. Quy định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành pháp trong kiểm soát các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền tư pháp; của cơ quan tư pháp trong kiểm soát các cơ quan thực hiện quyền hành pháp, quyền lập pháp” (tại Mục 8, phần IV); “Xác định thẩm quyền của tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn quyền tư pháp” và “Hoàn thiện thể chế để Viện kiểm sát nhân dân… kiểm sát hoạt động xét xử phù hợp với nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” (tại Mục 7, phần IV). Qua đó, khẳng định rõ, tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và thực hiện quyền tư pháp, còn các cơ quan khác như cơ quan điều tra, truy tố, thi hành án vẫn được hiểu như hiện nay là những cơ quan tham gia hoạt động tư pháp.
 
    Điều này cũng đòi hỏi nền tư pháp cần được thiết kế khoa học, bảo đảm tính đồng bộ. Trong đó, tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp; Viện kiểm sát nhân dân và các cơ quan điều tra, thi hành án, các thiết chế bổ trợ tư pháp phải được nghiên cứu, thiết kế phù hợp với hệ thống tòa án, bảo đảm đáp ứng kịp thời các hoạt động xét xử của tòa án. Tòa án giữ vị trí trung tâm của hoạt động tư pháp. Khi thực hiện quyền tư pháp, tòa án nhân dân có quyền, đồng thời, có trách nhiệm phải kiểm soát các hoạt động của các cơ quan khác theo quy định, nhằm bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân không được can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán, hội thẩm và chấp hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy, phải xây dựng tòa án trở thành thiết chế có năng lực, khả năng hiện thực để thực hiện quyền tư pháp một cách hiệu quả, hiệu lực cao nhằm bảo vệ các giá trị pháp quyền cốt lõi của xã hội, là hiện thân của công lý, công bằng, lẽ phải, bảo vệ pháp luật, là trung tâm của thực hiện quyền tư pháp; thẩm phán là một loại công chức đặc biệt, một nghề đặc biệt, cao cả, có danh tiếng, được xã hội tôn trọng, tôn vinh.
 
    - Bảo đảm độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có ý nghĩa góp phần phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tư pháp. Nghị quyết 27-NQ/TW đã xác định nhiệm vụ “Ban hành các quy định về kiểm soát quyền lực để PCtN, tC trong công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án” (Mục 8, phần IV). tại Kế hoạch 11-KH/TW, Bộ Chính trị giao nhiệm vụ cho Ban Nội chính trung ương tham mưu cho Bộ Chính trị quy định về kiểm soát quyền lực, PCTN, TC trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Có thể nói, chế độ tiền lương thấp đối với thẩm phán hiện nay chưa phải là bảo đảm hữu hiệu để tòa án thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử. Về mặt lý luận thì đa số các học thuyết về chế định thẩm phán trên thế giới đều cho rằng nhiệm kỳ và chế độ tiền lương phù hợp hoặc ở mức cao là những điều kiện cần thiết để bảo đảm thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử của thẩm phán và là yếu tố phòng tránh tiêu cực trong hoạt động tư pháp. Thực tế ở nước ta vừa qua cho thấy, một số cán bộ tòa án vi phạm pháp luật, phải bị xử lý hình sự. Mức lương thấp, không phù hợp sẽ tạo nên áp lực về thu nhập cho thẩm phán và thúc đẩy tình trạng tham nhũng, tiêu cực. Do chế độ tiền lương còn thấp, quá tải và áp lực công việc lớn nên đã có một số cán bộ, thẩm phán xin thôi việc hoặc chuyển công tác (theo Báo cáo công tác của Chánh án tòa án nhân dân tối cao tại Kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XV, năm 2022 có gần 1.000 cán bộ, công chức tòa án nghỉ việc). trước thực trạng này, Nghị quyết 27-NQ/TW đã đề ra nhiệm vụ “Đổi mới chính sách, chế độ tiền lương, thời hạn bổ nhiệm và cơ chế bảo đảm để đội ngũ cán bộ tư pháp yên tâm công tác, liêm chính, công tâm, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, nhất là đối với đội ngũ thẩm phán” để khắc phục tình trạng này (tại Mục 7, phần IV). Bên cạnh đó, để nâng cao tính độc lập trong xét xử của các thẩm phán, hội thẩm, hạn chế tối đa oan, sai, tiêu cực thì các thẩm phán, hội thẩm phải nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, giữ gìn đạo đức, lương tâm nghề nghiệp. Nghị quyết 27-NQ/TW đã đề ra nhiệm vụ: “Phát triển nhân lực tư pháp đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, có cơ cấu hợp lý. Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực tư pháp; rà soát, sắp xếp hợp lý các cơ sở đào tạo cử nhân luật. Xác định rõ hệ tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp, kiến thức pháp luật, kinh tế, xã hội và kinh nghiệm thực tiễn đối với từng chức danh, nhân lực tư pháp”. Điều này đòi hỏi cần xây dựng Chiến lược đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán với việc đa dạng hóa nhiều hình thức đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, trình độ quản lý, kỹ năng điều khiển phiên tòa, ngoại ngữ, tin học… tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình, nâng cao chất lượng đào tạo nghiệp vụ xét xử của thẩm phán, tập trung đào tạo nâng cao kỹ năng áp dụng pháp luật trong xét xử các loại án của người thẩm phán, hội thẩm…
 
    Để “Độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trở thành hiện thực sống động của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, phải luôn luôn bám sát và nắm vững các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo nêu trong Nghị quyết số 27-NQ/TW, trong đó, cần chú ý quan điểm: “Bảo đảm tổng thể, đồng bộ, liên thông giữa đổi mới lập pháp, cải cách hành chính, cải cách tư pháp; kết hợp hài hòa giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển; tiến hành khẩn trương, nghiêm minh, nhất quán, có trọng tâm, trọng điểm và lộ trình, bước đi vững chắc. Những vấn đề thực tiễn đòi hỏi, đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, có sự thống nhất cao thì kiên quyết thực hiện; những vấn đề chưa rõ, còn nhiều ý kiến khác nhau thì tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, thực hiện thí điểm khi cơ quan có thẩm quyền cho phép; những chủ trương đã thực hiện, nhưng không phù hợp thì nghiên cứu điều chỉnh, sửa đổi kịp thời”.
 
    Tóm lại, độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, một đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cần được nhận thức và quan tâm đầy đủ, phải thật sự trở thành tiêu chí chung, xuyên suốt của cải cách tư pháp. Vì thế, yêu cầu tiếp tục thực hiện các chủ trương cải cách tư pháp theo Nghị quyết 27-NQ/tW ở tầm vĩ mô hơn, liên kết hơn, toàn diện hơn sẽ mang đến cách nhìn nhận mới về độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Và ngược lại, độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật phải trở thành yếu tố trụ cột để bảo đảm thành công của công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta, nhằm phấn đấu đạt được xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự tổ quốc, phục vụ Nhân dân.

ThS. Nguyễn Quang Dũng

(Ban Nội chính Trung ương)

Tag:

File đính kèm