Cổng thông tin điện tử
Đảng Cộng sản Việt Nam
Cổng thông tin điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn tiếp xúc cử tri sau Kỳ họp 10, Quốc hội khóa XVMới Thủ tướng yêu cầu chậm nhất ngày 31/12 phải khôi phục nhà ở an toàn cho 12 hộ dân tại Khe SanhMới Hà Nội thông qua chủ trương đầu tư hai dự án chiến lược: Khu đô thị thể thao Olympic và Trục đại lộ cảnh quan sông HồngMới Thủ tướng: Chuyển từ 'quản lý bằng pháp luật' sang 'kiến tạo thể chế phát triển'Mới Kết luận của Ban Bí thư về việc chấn chỉnh lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trịMới Chủ tịch nước Lương Cường tiếp Đại sứ các nước trình Thư ủy nhiệmMới Bế mạc Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XVMới Bộ Chính trị kết luận về công tác của Tạp chí Cộng sản trong giai đoạn mớiMới Bài học “Kiên trì - Quyết tâm - Đồng thuận - Toàn diện - Đột phá” trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cựcMới Ảnh: Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực nhiệm kỳ Đại hội XIII của ĐảngMới Xây dựng ngành Nội chính Đảng là cơ quan “liêm chính của liêm chính” Ảnh: Hội nghị tổng kết công tác ngành Nội chính Đảng 2025, phương hướng, nhiệm vụ năm 2026 Nông nghiệp – Nông dân – Nông thôn là trụ đỡ cho nền kinh tế Bộ Chính trị thống nhất chủ trương về Đề án nghiên cứu thành lập Toà án chuyên biệt Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp Thư ký Hội đồng An ninh Liên bang Nga Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn dự tổng kết Nhóm nữ đại biểu Quốc hội khóa XV Trên 13 triệu ý kiến góp ý dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng Ảnh: Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp Đại tướng Sergei Shoigu, Thư ký Hội đồng An ninh Liên bang Nga Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 Đẩy nhanh tiến độ các công trình giao thông trọng điểm phục vụ lễ khởi công, khánh thành ngày 19/12 tới
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Từ chính sách xây dựng niềm tin, huy động sức mạnh toàn dân tộc

(ĐCSVN) – Thời gian qua, Bộ Dân tộc và Tôn giáo triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, đồng thời khơi dậy ý chí, khát vọng vươn lên, tinh thần thi đua yêu nước, từ đó góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào.

Những con số biết nói

Đảng ta luôn quan tâm phát triển toàn diện, bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển”. Tại Đại hội XIII, Đảng ta đề ra chủ trương: “Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng tính đặc thù của từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững”. Thực hiện chủ trương đó, Bộ Dân tộc và Tôn giáo luôn quán triệt phương châm: chính sách phải xuất phát từ Nhân dân, vì Nhân dân và trở về với Nhân dân, đã triển khai nhiều chương trình phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi như Chương trình 134, Chương trình 135, và hiện nay là Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (Chương trình 1719). Chương trình đang triển khai ở 34 tỉnh, thành có đồng bào dân tộc với các hoạt động hỗ trợ đất sản xuất, nước sinh hoạt, nhà ở, đào tạo nghề, y tế, giáo dục…, nhờ đó đã trực tiếp cải thiện cuộc sống hàng triệu hộ gia đình.

Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, ban hành nhiều chính sách đặc biệt đối với đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Ảnh minh họa: cema.gov.vn

 

Cũng thông qua các phong trào thi đua, mở rộng các mô hình phát triển kinh tế, xây dựng văn hóa, xã hội, đã có nhiều điển hình tiên tiến có những đóng góp to lớn cho sự phát triển xã hội. Ở Vĩnh Long, nhiều hộ Khmer nghèo thoát nghèo nhờ mô hình lúa chất lượng cao. Tại Sơn La, thanh niên Mông khởi nghiệp cà phê hữu cơ, đưa thương hiệu bản địa ra thị trường quốc tế. Ở Tây Nam Bộ, sư sãi Khmer vận động tín đồ xây cầu bê tông nông thôn. Tại Khánh Hòa, gia đình Chăm gìn giữ nghề thủ công, mở rộng xuất khẩu. Ở Tuyên Quang, đồng bào H’Mông hiến đất làm trường học, nâng tỷ lệ huy động trẻ đến trường lên hơn 95%. Ở An Giang, linh mục Công giáo cùng giáo dân xây nhà tình thương cho hộ nghèo Khmer. Đặc biệt, ở Quảng Ninh, cán bộ biên phòng phối hợp đồng bào Dao giữ vững đường biên giới hòa bình; ở Trường Sa, ngư dân và chiến sĩ đồng hành bảo vệ biển đảo, dựng xây “cột mốc sống” của Tổ quốc. Những điển hình ấy khẳng định: chính sách chỉ thật sự có sức sống khi gắn liền với con người cụ thể, địa bàn cụ thể.

Tỷ lệ hộ nghèo vùng đồng bào đến cuối 2024 giảm xuống còn 17,8%, vượt mục tiêu Quốc hội giao. Hơn 2.500 công trình hạ tầng thiết yếu được hoàn thành; trên 30.000 lượt chức sắc, người uy tín tham gia vận động, hình thành mạng lưới “cột mốc niềm tin” tại cơ sở. Hàng chục ngàn học sinh dân tộc thiểu số được cấp học bổng, hỗ trợ học tập; hàng nghìn cán bộ cơ sở được tập huấn nâng cao năng lực. Các hoạt động văn hóa, thể thao, lễ hội dân tộc được bảo tồn và phát huy, tạo nên sức sống mới cho cộng đồng…

Kết quả thực hiện Chương trình cùng với việc triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp kinh tế vĩ mô, các chương trình, chính sách lớn đã góp phần đầu tư hạ tầng kinh tế-xã hội ngày càng đồng bộ, người dân được tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, hỗ trợ đồng bào phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, giảm nghèo ngày càng bền vững…

 

Thực hiện Chương trình 1719, đến cuối năm 2024, hơn 2.500 công trình hạ tầng thiết yếu được hoàn thành. Ảnh: Báo Dân tộc và phát triển

 

Công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo được tăng cường và thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, góp phần đưa các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ổn định, đi vào nền nếp, tuân thủ pháp luật; khuyến khích tôn giáo tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện nhân đạo, giúp đỡ đồng bào gặp khó khăn tại vùng sâu, vùng xa; tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước, vì cộng đồng, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bộ cũng đã tham mưu triển khai Chương trình chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước, với tinh thần quyết tâm, tích cực, trách nhiệm cao, nhờ đó, Chương trình rút ngắn thời hạn sớm hơn 5 năm so với kế hoạch (từ năm 2030 theo kế hoạch ban đầu xuống năm 2025), quyết tâm hoàn thành trước ngày 31/8/2025. Riêng việc xây dựng nhà cho người có công, thân nhân, gia đình liệt sĩ hoàn thành trước ngày 27/7/2025, thể hiện sự tri ân sâu sắc trước sự hy sinh, cống hiến của các anh hùng liệt sĩ, những người có công với cách mạng.

Công tác đối ngoại trong lĩnh vực dân tộc, tôn giáo luôn được thực hiện theo nguyên tắc giữ vững độc lập, bảo đảm an ninh, chủ quyền quốc gia; tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.

Bộ Dân tộc và Tôn giáo cũng quán triệt tinh thần đưa nghị quyết vào cuộc sống, hiện thực hóa 4 Nghị quyết của Bộ Chính trị trong đời sống đồng bào dân tộc và tôn giáo ((Nghị quyết số 57, 59, 66, 68). Với nội dung chuyển đổi số trong Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024, Bộ Dân tộc và Tôn giáo đã xây dựng cơ sở dữ liệu dân tộc – tôn giáo tích hợp, đưa dịch vụ công đến tận bản làng, giảm thủ tục hành chính cho người dân. Cụ thể, nhiều địa phương đã tiên phong ứng dụng công nghệ số trong công tác dân tộc, tôn giáo và mang lại kết quả rõ rệt. Các tỉnh, thành phố Vĩnh Long, Cần Thơ, An Giang đã xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử về tình hình sinh hoạt tôn giáo của đồng bào Khmer, góp phần minh bạch thông tin, rút ngắn thời gian xử lý thủ tục hành chính liên quan đến đất đai, xây dựng cơ sở thờ tự. Quảng Ngãi, Gia Lai triển khai thí điểm ứng dụng di động “Kết nối cộng đồng” để đồng bào dân tộc thiểu số phản ánh kịp thời tình hình, kiến nghị lên chính quyền địa phương. Ở Lào Cai, Tuyên Quang, mô hình “cán bộ số cơ sở” đã giúp đồng bào tiếp cận dịch vụ y tế từ xa, học trực tuyến, nắm thông tin chính thống nhanh hơn. Những kết quả này chứng minh: chuyển đổi số, nếu được triển khai đúng hướng, sẽ trở thành nhịp cầu kết nối niềm tin giữa đồng bào các dân tộc, tôn giáo với Đảng, Nhà nước.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Bộ trưởng Bộ Dân tộc và Tôn giáo Đào Ngọc Dung tham quan và chụp ảnh lưu niệm cùng đại diện các gian hàng sản phẩm khởi nghiệp thuộc Chương trình 1719. Ảnh: Báo Dân tộc và Phát triển

 

Tại Thành phố Cần Thơ, mô hình “Chính quyền số phục vụ đồng bào Khmer” đã giúp hơn 75% thủ tục hành chính cấp xã được giải quyết trực tuyến, góp phần giảm chi phí đi lại cho người dân vùng sâu. Ở Lào Cai, ứng dụng công nghệ GIS trong quản lý đất rừng và dữ liệu dân cư của đồng bào H’Mông đã giúp minh bạch hóa quyền lợi và nâng cao hiệu quả quản trị địa phương. Tại Đắk Lắk, việc triển khai hệ thống thông tin tôn giáo trực tuyến đã giúp chính quyền nắm chắc tình hình sinh hoạt tôn giáo, đồng thời tạo kênh kết nối minh bạch với các chức sắc và đồng bào….

Với Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, Bộ Dân tộc và Tôn giáo đã giới thiệu mô hình “đoàn kết tôn giáo đồng hành phát triển”, tham gia diễn đàn quốc tế để khẳng định đường lối đúng đắn. Với Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, Bộ tham mưu sửa đổi Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, bảo đảm tự do tín ngưỡng và minh bạch. Với Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Bộ chủ trương hỗ trợ doanh nghiệp của đồng bào, khuyến khích khởi nghiệp gắn với văn hóa bản địa – từ dược liệu Tây Bắc, du lịch cộng đồng Tây Nguyên đến sản phẩm thủ công của đồng bào các dân tộc thiểu số như Chăm, Khmer…

Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Tuy đạt nhiều kết quả, công tác dân tộc, tôn giáo vẫn đứng trước khó khăn: địa bàn rộng, điều kiện tự nhiên hạn chế, hạ tầng thiếu, thiên tai, biến đổi khí hậu, tệ nạn xã hội, sự lợi dụng tôn giáo để chia rẽ… Để thực hiện tốt công tác dân tộc, tôn giáo, tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ Bộ Dân tộc và Tôn giáo lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030, Bộ đề ra mục tiêu chủ động, linh hoạt, nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của ngành, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển toàn diện, nhanh, bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; phát huy tiềm năng, lợi thế, đặc điểm bản sắc riêng biệt, hội nhập và kết nối để thu hẹp dần trình độ phát triển, mức sống và thu nhập của nhân dân giữa vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi so với các vùng trong cả nước; chú trọng đầu tư các nguồn lực xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, chăm lo lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; không ngừng củng cố sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc vì hoà bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Bộ Dân tộc và Phát triển hướng tới mục tiêu phát huy tiềm năng, đặc thù của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, phát triển bền vững, thúc đẩy tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào. Ảnh: Báo Nhân dân

 

Đồng thời làm tốt những chỉ đạo của đồng chí Mai Văn Chính, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ tại Đại hội, đó là: nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật về dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo; tập trung sắp xếp, tinh gọn tổ chức, bộ máy; xây dựng đội ngũ cán bộ tâm huyết, vì nước, vì dân, vì sự phát triển của đất nước theo tinh thần "Tinh-gọn-mạnh-hiệu năng-hiệu lực-hiệu quả"; thiết kế các cơ chế, chính sách nhằm phát huy tiềm năng, đặc thù của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, hướng tới phát triển bền vững, thúc đẩy tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế-xã hội, giảm nghèo nhanh, bền vững gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh; chủ động nghiên cứu, tham mưu kịp thời, hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân tộc, chính sách dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo; nâng cao đời sống, phúc lợi của nhân dân; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo. Bên cạnh đó, tập trung phát triển nguồn nhân lực của Bộ Dân tộc và Tôn giáo; đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở cơ sở, làm đầu mối dẫn dắt, tập hợp đồng bào dân tộc thiểu số trong tổ chức sản xuất, quản lý xã hội; đẩy mạnh thu hút và trọng dụng nhân tài, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là người dân tộc thiểu số, có đủ phẩm chất, năng lực, tư duy mới, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước; phát triển mạnh hạ tầng số, đẩy mạnh chuyển đổi số trong toàn Đảng bộ; xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo phục vụ công tác quản lý, điều hành, chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Dân tộc và Tôn giáo; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, phổ biến giáo dục pháp luật cho nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đồng bào có đạo; tăng cường đồng thuận xã hội; củng cố lòng tin của đồng bào với Đảng và Nhà nước./.


ThS. Nguyễn Hoàng Hành, Phó Vụ trưởng Vụ Tuyên truyền công tác dân tộc, tôn giáo - Bộ Dân tộc và Tôn giáo
Bình luận

Các tin khác

Tin đọc nhiều