1. Nhận thức về mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường trong huy động và phân bổ nguồn lực tài chính cho thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam
Thực tiễn phát triển kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới đã chứng minh, để huy động và phân bổ hiệu quả các nguồn lực tài chính cho thực hiện chính sách xã hội, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu phát triển xã hội, đều phải giải quyết đúng đắn, hài hòa mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường trong huy động và phân bổ hiệu quả các nguồn lực tài chính, bởi vì chỉ có xác định đúng vị trí, vai trò mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường trong huy động và phân bổ hiệu quả các nguồn lực tài chính cho thực hiện chính sách xã hội mới đưa ra được các giải pháp, chính sách phù hợp nhằm phát huy được các ưu điểm và hạn chế những rủi ro, thất bại của cả nhà nước lẫn thị trường trong quá trình huy động và phân bổ hiệu quả các nguồn lực tài chính.
Mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường là mối quan hệ giữa nhân tố chủ quan là vai trò, chức năng quản lý điều hành của nhà nước, với nhân tố khách quan là các quy luật vận động của thị trường nhằm xác định sự phân công hợp lý giữa nhà nước và thị trường trong huy động và phân bổ hiệu quả các nguồn lực tài chính cho thực hiện chính sách xã hội. Trong mối quan hệ này vừa có sự thống nhất trong chỉnh thể, vừa có sự mâu thuẫn giữa hai nhân tố nêu trên.
Sự thống nhất được thể hiện ở việc sự vận hành của thị trường là một động lực căn bản và quan trọng cho sự tăng trưởng kinh tế, thông qua các tín hiệu và quy luật của thị trường, các nguồn lực được huy động và phân bổ một cách tiết kiệm và hiệu quả. Tăng trưởng kinh tế cao, hiệu quả cũng góp phần tăng thu ngân sách, đảm bảo các nguồn lực tài chính cho Nhà nước thực hiện các chính sách xã hội. Các doanh nghiệp, chủ thể trong nền kinh tế tăng trưởng tốt, có doanh thu, lợi nhuận tốt thì sẽ góp phần tăng cường đóng góp cho xã hội, tăng trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, để cho thị trường, nền kinh tế hoạt động bền vững, hiệu quả, thông suốt, cần có những điều kiện nhất định về sự ổn định xã hội, sự đảm bảo về an sinh xã hội, phúc lợi xã hội cho người lao động; sự đảm bảo về việc làm, thu nhập, sinh kế, đào tạo nghề, sự đảm bảo về an ninh con người, an ninh xã hội… Các điều kiện nói trên chỉ được thực hiện bởi sự can thiệp đúng đắn của Nhà nước, sự huy động, phân bổ nguồn lực của Nhà nước đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện chính sách xã hội.
Giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường trong huy động và phân bổ hiệu quả các nguồn lực tài chính cho thực hiện chính sách xã hội, tức là tìm ra mức độ, nội dung, liều lượng gắn kết thế nào là vừa để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững, vừa đảm bảo được các mục tiêu về xã hội mà nhà nước đề ra. Việc giải quyết mối quan hệ này chủ yếu do nhà nước thực hiện thông qua việc nhận diện bản chất, mức độ của mối quan hệ và từ đó đưa ra các cơ chế, chính sách, giải pháp xử lý mối quan hệ này một cách phù hợp, đúng đắn.
2. Thực trạng và một số giải pháp giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường trong phân bổ nguồn lực tài chính cho thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam
2.1. Thực trạng
Qua gần 40 năm đổi mới và phát triển, nước ta đã đề ra nhiều giải pháp, chính sách nhằm phát triển xã hội, cải thiện thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển đất nước và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nhiều mục tiêu phát triển xã hội, các mục tiêu thiên niên kỷ trên lĩnh vực xã hội đã đạt được. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề phức tạp cần phải giải quyết trên lĩnh vực xã hội: Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển còn nhiều mặt hạn chế và thiếu nguồn lực để thực hiện. Một bộ phận người dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn. Lao động, việc làm, nhất là ở khu vực phi chính thức chưa bảo đảm đầy đủ và bền vững. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí đa chiều còn cao; nguy tái nghèo còn lớn. Chưa tận dụng tối đa cơ hội dân số vàng. Xu hướng già hóa dân số đặt ra nhiều thách thức đối với quá trình phát triển, nhất là trong việc tăng năng suất, hiệu quả lao động và bảo đảm an sinh xã hội. Chất lượng giáo dục, đào tạo còn thấp, nhất là giáo dục đại học và giáo dục nghề. Phát triển văn hóa chưa đồng bộ với phát triển kinh tế. Môi trường văn hóa và đạo đức xã hội xuống cấp. Trật tự, an toàn xã hội còn nhiều bất cập; nhiều vấn đề bức xúc xã hội nảy sinh chưa được xử lý kịp thời và có hiệu quả; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tham nhũng, tiêu cực, tệ nạn và vi phạm pháp luật trong xã hội diễn biến phức tạp và chưa được ngăn chặn, đẩy lùi... Những hạn chế nêu trên có nguyên nhân chủ yếu như sau:
- Nền kinh tế nước ta phát triển chưa ổn định, tiềm lực, nguồn lực của nền kinh tế thấp, mất cân đối kinh tế vĩ mô kéo dài, trong khi đó nhiều vấn đề xã hội bức xúc đòi hỏi nguồn lực lớn cần phải xử lý, giải quyết.
- Tình hình thiên tai, bệnh dịch và biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, gây thiệt hại nặng nề và tác động lớn đến đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân.
- Nhận thức của một số cơ quan, tổ chức, cá nhân về phát triển xã hội chưa đầy đủ; ý thức chấp hành chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước trên lĩnh vực xã hội chưa cao.
- Cơ chế phân bổ nguồn lực, chính sách phân phối thu nhập còn bất hợp lý dẫn đến gia tăng chênh lệch về trình độ phát triển, bất bình đẳng xã hội, chênh lệch giàu nghèo, mức sống, mức thu nhập và hưởng thụ thành quả phát triển giữa các tầng lớp, nhóm đối tượng, vùng, miền, thành thị và nông thôn làm gia tăng những mâu thuẫn, bất ổn và phân hóa xã hội.
- Chưa xây dựng được một mô hình xã hội tổng quát với các quan điểm mới về cơ cấu xã hội, sự biến đổi xã hội cùng với phân tầng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Các chính sách xã hội, dân số, lao động và an sinh xã hội chậm được đổi mới phù hợp với cơ chế thị trường, trình độ phát triển của nền kinh tế, sự biến đổi cơ cấu xã hội, dân số, lao động, nhất là xu hướng dân số, lao động đang già đi nhanh chóng.
- Một bộ phận cán bộ, đảng viên yếu kém về phẩm chất đạo đức, năng lực, trình độ và thiếu tính tiên phong, gương mẫu chưa được xử lý kiên quyết. Những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và tình trạng tham nhũng, tiêu cực ở một bộ phận cán bộ, đảng viên ảnh hưởng đến hiệu quả, hiệu lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực xã hội.
2.2. Một số định hướng
Trong thời gian tới để bảo đảm phát triển xã hội bền vững, bảo đảm công bằng xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, định hướng các chính sách phát triển xã hội cần tập trung vào các nội dung:
- Lấy người dân làm trung tâm và mục tiêu của các chính sách xã hội. Mục tiêu là không ngừng nâng cao mức sống, chất lượng cuộc sống và chỉ số con người Việt Nam tương thích với tiêu chí của nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Cần tiếp tục hoàn thiện, thực hiện tốt an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, trọng tâm là giải quyết việc làm ổn định, nâng cao thu nhập cho người lao động, xóa nghèo bền vững; mở rộng và nâng cao chất lượng mạng lưới bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
- Trong bối cảnh xuất hiện nhiều tầng lớp xã hội, nhóm xã hội với nhiều ngành nghề, nhu cầu, lợi ích đa dạng, các chính sách xã hội cần sát hợp với từng giai tầng, từng nhóm xã hội và thường xuyên cập nhật, điều chỉnh để phù hợp với sự biến đổi của xã hội. Chính sách xã hội cần đáp ứng nhu cầu của tầng lớp thị dân, tầng lớp trung lưu ngày càng đông đảo. Các chính sách xã hội thay đổi trọng tâm từ chỗ hỗ trợ thoát nghèo sang giúp tầng lớp trung lưu ngày càng phát triển hơn.
- Các chính sách xã hội hướng đến sự phát triển hài hòa, bền vững. Quan tâm tích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hóa giàu - nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững. Cần có cơ chế, chính sách đúng đắn để điều tiết, khắc phục sự phát triển không đồng đều về cơ cấu lao động, cơ cấu ngành nghệ, cơ cấu dân cư, cơ cấu độ tuổi và giới tính...; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa thành thị, nông thôn, giữa các vùng miền. Rút ngắn khoảng cách chênh lệch giàu nghèo trên cơ sở không ngừng nâng cao đời sống nhân dân.
- Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, thực hiện dân chủ, công bằng, tiến bộ xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát triển kinh tế nhanh, bền vững là nhiệm vụ trung tâm; phát triển xã hội bao trùm, bền vững là tiền đề để phát triển kinh tế nhanh, bền vững. Điều tiết quan hệ lợi ích, điều hòa quan hệ xã hội một cách hợp lý. Thực hiện hiệu quả chính sách ưu đãi người có công, chính sách trợ cấp, trợ giúp xã hội; cung ứng ngày càng tốt hơn những dịch vụ cơ bản về giáo dục, y tế, nhà ở, điện, nước sạch, thông tin....
- Các chính sách xã hội phải tạo điều kiện để mọi người dân có cơ hội bình đẳng và điều kiện để phát triển toàn diện, được tiếp cận những nguồn lực chung, dịch vụ công và được phát huy mọi khả năng, tham gia, đóng góp và hưởng thụ thành tựu phát triển, tạo nên những nền tảng vật chất, tri thức và văn hóa tốt đẹp.
- Dự báo, kiểm soát, giải quyết kịp thời những mâu thuẫn, xung đột xã hội; kiềm chế, đẩy lùi tội phạm, tệ nạn, tiêu cực xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, xây dựng cộng đồng xã hội đồng thuận, bền vững.
2.3. Một số giải pháp
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, tổng kết lý luận, đổi mới tư duy để nhận thức sâu sắc và đầy đủ hơn nữa về mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường trong huy động và phân bổ nguồn lực tài chính cho thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam nhằm nâng cao năng lực hoạnh định và thực thi các công cụ, chính sách can thiệp của Nhà nước. Cần phải tìm hiểu, tiếp thu những những mô hình, kinh nghiệm hay từ thực tiễn kinh tế thế giới và thường xuyên phân tích, tổng kết mối quan hệ này trong thực tiễn phân bổ nguồn lực tài chính ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, cũng cần phải thường xuyên lấy ý kiến đóng góp, tham gia của các chủ thể tham gia phân bổ nguồn lực tài chính cho thực hiện chính sách xã hội trong việc xác định vai trò, chức năng của nhà nước cũng như lấy ý kiến đóng góp, tham gia vào việc xây dựng, thực thi hệ thống pháp luật, hoạch định các chính sách của nhà nước có liên quan đến phân bổ nguồn lực tài chính. Việc đóng góp ý kiến của chủ thể tham gia sẽ giúp cho việc giải quyết mối quan hệ nhà nước và thị trường phù hợp với thực tiễn hơn, hạn chế được những tồn tại, bất cập. Việc đóng góp ý kiến được thực hiện thông qua góp ý trực tiếp hoặc là góp ý tại các hội nghị, hội thảo về các chủ đề có liên quan. Việc đóng góp ý kiến của các chủ thể phải trên cơ sở lợi ích chung, tránh những lợi ích cục bộ, có như vậy các ý kiến đóng góp của các chủ thể mới có giá trị và hiệu quả.
Thứ hai, để điều tiết và can thiệp đúng đắn, hiệu quả đối với huy động và phân bổ nguồn lực tài chính cho thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam, Nhà nước phải không ngừng hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về hoạch định, tổ chức thực hiện chính sách xã hội theo hướng tinh gọn, hiệu quả, chuyên nghiệp.
- Tiếp tục nâng cao năng lực và hiện đại hoá các hoạt động nghiệp vụ của cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan thực thi pháp luật ở trung ương và địa phương có liên quan tới huy động và phân bổ nguồn lực tài chính cho thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam nhằm thực hiện hiệu quả các mục tiêu được đặt ra. Tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn, cán bộ hoạch định chính sách liên quan tới huy động và phân bổ nguồn lực tài chính cho thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng.
- Nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống tổ chức và cơ chế hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan thực thi pháp luật liên quan tới huy động và phân bổ nguồn lực tài chính cho thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam đồng bộ, tổ chức theo thứ bậc chặt chẽ và có tính kỷ luật. Khắc phục tình trạng chồng chéo hiện nay giữa các tổ chức, đơn vị có liên quan thông qua việc phân công cụ thể quyền hạn cho từng cơ quan, một cơ quan nên chịu trách nhiệm về nhiều loại hoạt động huy động và phân bổ nguồn lực tài chính cho thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam. Củng cố, kiện toàn các tổ chức quản lý về huy động và phân bổ nguồn lực tài chính cho thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam ở các ngành và địa phương.
- Phân cấp mạnh hơn giữa các bộ/ngành và địa phương trong quản lý các hoạt động liên quan tới huy động và phân bổ nguồn lực tài chính cho thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam theo hướng giao thêm nhiều quyền hơn cho các địa phương với những quy định rõ ràng, dựa trên các chỉ tiêu hiệu quả khách quan trong việc thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước.
Thứ ba, đẩy mạnh cải cách các thủ tục hành chính, tăng cường trách nhiệm giải trình của nhà nước, kiên quyết chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, đặc quyền, đặc lợi... nhằm đáp ứng được các yêu cầu phát triển mới của việc huy động và phân bổ nguồn lực tài chính cho thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam.
Thứ tư, xây dựng, hoàn thiện thể chế, thiết chế quản lý phát triển xã hội phù hợp, giúp giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường trong huy động, phân bổ nguồn lực tài chính thực hiện các chính sách xã hội. Đánh giá, dự báo kịp thời những biến đổi trong cơ cấu xã hội, những vấn đề mới nảy sinh trong đời sống xã hội để chủ động ứng phó. Chủ động giải quyết kịp thời, có hiệu quả những vấn đề bức xúc xã hội phát sinh trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế, cơ cấu lại nền kinh tế, đô thị hóa, nhất là thất nghiệp, lao động, việc làm, đói nghèo, bất bình đẳng, tệ nạn xã hội; bảo đảm an sinh xã hội và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước và chính sách phát triển. Từng bước cải thiện chất lượng cuộc sống và sự an toàn, bình đẳng, hạnh phúc của nhân dân. Đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người dân về các dịch vụ công.
Thứ năm, mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội đến mọi người dân, triển khai trên toàn quốc các hệ thống và các biện pháp an sinh xã hội thích hợp cho mọi người, bao gồm cả các chính sách sàn an sinh xã hội và đến năm 2030 đạt được diện bao phủ đáng kể cho người nghèo và những người dễ bị tổn thương. Tăng cường khả năng tiếp cận của người nghèo, người dễ bị tổn thương tới hệ thống dịch vụ an sinh xã hội. Áp dụng cách tiếp cận đồng bộ hơn về trợ cấp xã hội theo hộ gia đình, xây dựng các chương trình chống đói nghèo theo địa bàn để tập trung vào phương pháp tiếp cận tạo thu nhập dựa trên cộng đồng mang tính đa dạng hơn.
Đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội theo hướng bao trùm, công bằng và bình đẳng; mở rộng đối tượng tham gia và diện bao phủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp, bao gồm cả lao động phi chính thức. Đổi mới và nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động và khả năng chi trả của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam và các quỹ bảo hiểm. Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2011-2020.
Thứ sáu, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách về tiền lương, tiền công, khắc phục cơ bản những bất hợp lý, bảo đảm tiền lương, thu nhập công bằng, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động; bảo đảm việc làm đầy đủ, bền vững cho người lao động, kể cả người lao động cao tuổi. Giải quyết tốt chính sách lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động. Giảm thất nghiệp và thiếu việc làm của người trong độ tuổi lao động, nhất là thanh niên; bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người lao động, đặc biệt là lao động cao tuổi và lao động yếu thế. Tiếp tục cải cách chính sách tiền lương phù hợp với cơ chế thị trường và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. Bảo đảm tiền lương đáp ứng nhu cầu tối thiểu của cán bộ, công chức và người lao động. Triển khai có hiệu quả Kết luận số 63-KL/TW ngày 27/5/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2020.
Mở rộng độ bao phủ hưu trí thông qua việc cải cách hệ thống hưu trí hiện tại. Cải cách bao gồm từng bước nâng độ tuổi nghỉ hưu chính thức, không khuyến khích nghỉ hưu sớm, đồng thời mở rộng nguồn thu dành cho lương và giảm số lượng người lao động thuộc nhóm danh mục nghề nghiệp đặc biệt được ưu tiên nghỉ hưu sớm.
Thứ bảy, đổi mới và thực hiện tốt chính sách chăm sóc người có công; hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về người có công. Giải quyết dứt điểm, triệt để các hồ sơ tồn đọng, quyền lợi chính đáng của người có công; bảo đảm đời sống và an sinh xã hội của người có công không thấp hơn mức trung bình trên địa bàn. Vận động toàn xã hội tham gia vào việc chăm lo đời sống và hỗ trợ thực hiện chính sách đối với người có công. Tăng cường công tác trợ giúp xã hội cho những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Đẩy mạnh xã hội hóa, huy động sự tham gia của mọi thành phần trong xã hội tham gia công tác trợ giúp xã hội. Tăng cường khả năng chống chịu và phục hồi cho người nghèo và những người trong hoàn cảnh dễ bị tổn thương, đồng thời giảm rủi ro và tổn thương của họ do các hiện tượng thời tiết và khí hậu cực đoan, các cú sốc và thảm họa về môi trường, kinh tế, xã hội.
Thứ tám, thực hiện bao phủ y tế toàn dân, hoàn thiện hệ thống chăm sóc sức khỏe, bảo đảm cuộc sống an toàn, khỏe mạnh và tăng cường phúc lợi cho mọi người ở mọi lứa tuổi. Bảo đảm công bằng, giảm chênh lệch trong tiếp cận chính sách chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo đảm cơ hội tiếp cận bình đẳng về chăm sóc sức khỏe cho người dân. Thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khoá XII về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ của người dân. Tăng cường cung cấp dịch vụ về chăm sóc ban đầu thông qua chương trình cải cách bền vững, dài hạn. Chương trình này bao gồm các chính sách phát triển nguồn nhân lực, cơ chế chi trả cho cơ sở cung cấp dịch vụ, cơ chế đảm bảo chất lượng... Giảm gánh nặng chi tiêu y tế của người dân thông qua việc hỗ trợ từ nguồn chi tiêu của Chính phủ và nguồn đóng góp từ bảo hiểm. Giảm đáng kể tất cả các hình thức bạo lực và tỷ lệ tử vong liên quan đến bạo lực ở mọi nơi. Kiềm chế và giảm tai nạn giao thông trên cả ba tiêu chí, số vụ, số người chết và số người bị thương./.
TS. Nguyễn Mạnh Hùng*
* Thư ký khoa học Hội đồng Lý luận Trung ương.