Sign In

Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc - kỷ nguyên phát triển vì một Việt Nam giàu có và thịnh vượng

19:20 27/11/2024

 

1. Nhận thức về kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

 

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã nói trong bài phát biểu tại Đại học Columbia (Mỹ), vào ngày 23/9/2024: “Sau gần 80 năm Độc lập và gần 40 năm Đổi mới, Việt Nam đang đứng trước khởi điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”. "Kỷ nguyên mới" là một thuật ngữ dùng để chỉ một giai đoạn lịch sử mới, đánh dấu bởi những sự kiện hoặc thay đổi quan trọng có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của xã hội. Trong bối cảnh Việt Nam, "kỷ nguyên mới" thường được hiểu là thời kỳ phát triển mới của đất nước, với những mục tiêu và nhiệm vụ chiến lược mới nhằm thúc đẩy sự tiến bộ và thịnh vượng. Kỷ nguyên vươn mình hàm ý tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực, nội lực, tự tin để vượt qua thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, đạt được những thành tựu vĩ đại. Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam là một giai đoạn phát triển mới, đánh dấu sự tiến bộ vượt bậc của đất nước trên nhiều lĩnh vực. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Việt Nam đang nỗ lực xây dựng một quốc gia giàu mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.

 

Việt Nam với ba kỷ nguyên trong suốt quá trình lịch sử phát triển, đó là Kỷ nguyên Độc lập, tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội; Kỷ nguyên Đổi mới và Kỷ nguyên Vươn mình của dân tộc. Ba kỷ nguyên trên luôn hội tụ được những điều kiện cần và đủ để thực hiện những nhiệm vụ trong từng kỷ nguyên và trong tổng thể lịch sử tồn tại và phát triển của đất nước. Thành tựu mang tầm vóc thời đại của kỷ nguyên độc lập, tự do và những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của kỷ nguyên đổi mới và phát triển tạo ra tiền đề vững chắc cho Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) đã vạch ra mục tiêu vươn mình để đến năm 2045, Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao. Kỷ nguyên thứ ba này sẽ kết thúc khi nước Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu.

 

Với Việt Nam, việc sánh vai với các cường quốc đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng ngay từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Kỷ nguyên Vươn mình của Việt Nam hàm ý là sự vươn mình của đất nước trong cuộc đua để được đứng trong đội ngũ các cường quốc trên thế giới. Có nhiều tiêu chí để xác định trình độ của một quốc gia phát triển. Theo chuẩn hiện hành, thế giới ngày nay có 38 quốc gia thành viên Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) được xem là các nước phát triển, bao gồm các nước G7, các nước công nghiệp hóa mới và một số quốc gia khác có nền sản xuất công nghiệp hiện đại[1]. Để trở thành quốc gia phát triển, trước hết phải là một nước công nghiệp hóa, có nền sản xuất công nghiệp tiên tiến, xã hội hiện đại, văn minh và thu nhập bình quân tính theo đầu người ở mức cao, trên 12.050 USD/năm.

 

Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dâu giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới là Đại hội XIV của Đảng, từ đây, mọi người dân Việt Nam, hàng trăm triệu người như một, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng tâm hiệp lực, chung sức đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh.

 

2. Kỷ nguyên vươn mình: Việt Nam phấn đấu trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa

 

Cải cách kinh tế sau 40 năm Đổi mới đã giúp nước ta đạt được những thành tựu vĩ đại dưới sự lãnh đạo của Đảng, giúp Việt Nam tích lũy thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo: Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ thấp, bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu, rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, phát huy vai trò tích cực tại nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương quan trọng. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; lợi ích quốc gia, dân tộc được bảo đảm. Quy mô nền kinh tế năm 2023 tăng gấp 96 lần so với năm 1986. Việt Nam trong nhóm 40 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài; có quan hệ ngoại giao với 193 nước là thành viên Liên hợp quốc; xây dựng các mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với tất cả các cường quốc trên thế giới và khu vực. Đời sống người dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh; tỷ lệ đói nghèo giảm từ 60% của những năm đầu thập kỷ 90 xuống còn dưới 3%. Đây là một thành tích rất ấn tượng, được quốc tế công nhận. hoàn thành về đích sớm các mục tiêu Thiên niên kỷ. Tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, quốc phòng, an ninh không ngừng nâng cao; tham gia đóng góp tích cực duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

 

Trong bài viết của mình, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói về tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đã nêu ra quan điểm chỉ đạo về phương pháp và cách thức lãnh đạo, cầm quyền phải tiếp tục đổi mới sáng tạo khi tình hình đã đổi thay. Các phương thức ấy giúp các nghị quyết của Đảng có tính vượt trước trên một số lĩnh vực, khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội trước kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

 

Nhìn lại 40 năm trước Đổi mới, từ khi đất nước ta vô cùng khó khăn khi trải qua chiến tranh, bị bao vây cấm vận, đến nay Việt Nam có vị thế ngày càng cao, đời sống nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế xã hội phải bền vững và thành quả phải đến tận tay người dân, mức sống cụ thể của người dân phải cao lên, "đó mới là mục tiêu cao của chúng ta". Tổng Bí thư đánh giá, năm 2024 nước ta đã nỗ lực rất lớn, nếu nhìn lại cả nhiệm kỳ thì đây sẽ là năm phát triển nhất: kết quả tăng trưởng, dự trữ ngoại tệ và các số liệu vừa qua là tốt nhưng nếu mọi nguồn lực được sử dụng tốt hơn thì kết quả còn cao hơn. So với trong khu vực, năng suất lao động của Việt Nam vẫn chưa cao. Nếu năng suất lao động cao thì "không sợ thất nghiệp, không sợ không có việc làm và thậm chí giảm giờ làm"[2]. Theo Tổng Bí thư, các ngành nghề cơ bản, cốt lõi của nền kinh tế phải được phát triển, việc dựa vào nguồn thu từ đất đai, FDI cũng chỉ trong một giai đoạn. Người dân mong muốn cuộc sống ấm no, môi trường sống tốt; phát triển bền vững phải bảo vệ môi trường.

 

Tổng Bí thư cho rằng, có ba cơ sở để định vị mục tiêu đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới. Đó là:

 

+  Những thành tựu vĩ đại đạt được sau 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, giúp Việt Nam tích lũy thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo: Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ thấp, bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu, rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, phát huy vai trò tích cực tại nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương quan trọng. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; lợi ích quốc gia, dân tộc được bảo đảm.

 

+ Thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại, từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để xác lập trật tự thế giới mới, đây cũng là thời kỳ cơ hội chiến lược quan trọng, giai đoạn nước rút của cách mạng Việt Nam để đạt mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc đạt mục tiêu 100 năm thành lập nước. Sự biến chuyển có tính thời đại đem đến thời cơ, thuận lợi mới, đồng thời cũng có nhiều thách thức, trong đó mặt thách thức nổi trội hơn và thời cơ mới còn có thể xuất hiện trong khoảnh khắc giữa những thay đổi đột biến trong cục diện thế giới. Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, nhất là trí tuệ nhân tạo và công nghệ số đem đến cơ hội mà những quốc gia đang phát triển, chậm phát triển có thể nắm bắt để đi trước đón đầu, phát triển vượt bậc.

 

+ Lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, khơi dậy ý chí tự lực, tự chủ, tự tin, tự cường, tự hào dân tộc, huy động sức mạnh toàn dân kết hợp với sức mạnh thời đại, con thuyền cách mạng Việt Nam sẽ đạt được những kỳ tích. Hiện nay là thời điểm ý đảng hòa quyện với lòng dân trong khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sớm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, sánh vai với các cường quốc 5 châu.[3]

Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là thời kỳ phát triển, giàu mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hướng tới mục tiêu xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mọi người dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đóng góp tích cực cho hoà bình, ổn định, phát triển toàn cầu.

 

Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao.

 

Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới là từ Đại hội XIV của Đảng, khi cả dân tộc sẽ đoàn kết, đồng lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng để đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển. Tận dụng tối đa thời cơ và đẩy lùi những thách thức là chiến lược để đảm bảo sự bứt phá và cất cánh.

 

 

3. Một số nhiệm vụ và định hướng để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam

 

Kỷ nguyên vươn mình sẽ là kỷ nguyên thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo ở Việt Nam, đưa khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo trở thành động lực của phát triển đất nước nhanh và bền vững, mở ra triển vọng phát triển mới. Điều đó đòi hỏi Việt Nam cần hoạch định chiến lược đúng đắn, xác lập mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp cho đất nước. Đồng thời có chiến lược phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo. Không quốc gia nào trở thành quốc gia phát triển mà không có khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo ở trình độ cao. Việt Nam phải có một số mũi nhọn khoa học công nghệ, nhất là khoa học ứng dụng và năng lực đổi mới sáng tạo. Phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và phát triển con người toàn diện là hai trụ cột quan trọng, tạo động lực bứt phá cho phát triển đất nước. 

 

Đổi mới sáng tạo phải tạo ra giá trị mới, đem lại những thay đổi đột phá cho doanh nghiệp, cho cộng đồng xã hội và cho đất nước, góp phần quan trọng trong thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chiến lược phát triển nhanh và bền vững là yêu cầu quan trọng trong kỷ nguyên mới của Việt Nam. Phát triển nhanh đòi hỏi tốc độ cao trong tăng trưởng kinh tế, gia tăng sản xuất - kinh doanh, tạo điều kiện thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước trong khu vực và trên thế giới. Phát triển bền vững đòi hỏi hiệu quả và năng suất lao động cao, không tăng đầu tư, nguyên nhiên vật liệu, lao động… nhưng vẫn tăng nhanh sản lượng, chất lượng; không hy sinh công bằng, tiến bộ xã hội, môi trường sinh thái lấy tăng trưởng kinh tế.

 

Phát triển nhanh cần hệ thống chủ trương, chính sách riêng biệt và phát triển bền vững cũng cần hệ thống chủ trương, chính sách riêng biệt khác. Bởi vậy, cần có chiến lược phát triển nhanh và bền vững để kết hợp hai hệ thống chủ trương, chính sách ấy trong một chỉnh thể thống nhất, hài hòa. Chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo sẽ giúp Việt Nam vươn lên phát triển. Mỗi người dân cần đóng góp công sức, trí tuệ cho phát triển của đổi mới sáng tạo nước nhà, góp phần đưa đất nước phát triển nhanh hơn, phát huy sức mạnh nội lực và ngoại lực nâng cao năng suất, sức cạnh tranh, nâng cao uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.

 

Một số định hướng chiến lược để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới. Đó là:

 

1)Cải tiến phương thức lãnh đạo của Đảng

 

Cần thực hiện nghiêm phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, không để xảy ra bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. Bộ máy, tổ chức các cơ quan của đảng cần được tinh gọn để thực sự là hạt nhân trí tuệ, đội tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước. Phân biệt và quy định rõ nhiệm vụ cụ thể của các cấp lãnh đạo trong các loại hình tổ chức đảng, tránh tình trạng bao biện làm thay, hoặc tồn tại song trùng, hình thức. Bên cạnh đó, cần đổi mới công tác kiểm tra, giám sát, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các hoạt động của Đảng.

2)Tăng cường tính đảng trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN;

 

Cần phải liên tục hoàn thiện Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa để thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, phát huy dân chủ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Công tác lập pháp cần đổi mới mạnh mẽ, trong đó chuyển đổi tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý Nhà nước vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển. Các quy định của luật phải mang tính ổn định, có giá trị lâu dài. Quy trình xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật phải đổi mới, bám sát thực tiễn, để xây dựng các quy định pháp luật phù hợp; lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể.

3)Tinh gọn tổ chức bộ máy;

Cần tiếp tục tập trung xây dựng, tinh gọn bộ máy tổ chức Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội để hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tinh gọn bộ máy, tổ chức các cơ quan của đảng. Phân cấp, phân quyền cho địa phương gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát, xác định rõ trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương, giữa người quản lý và người lao động; hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát.

4)Chuyển đổi số;

Chuyển đổi số phải được thực hiện với những cải cách mạnh mẽ, toàn diện để điều chỉnh quan hệ sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi do Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đưa đất nước đi tắt đón đầu phát triển vượt bậc. Xây dựng hành lang pháp lý để thúc đẩy phát triển số, đảm bảo rằng khung pháp lý không trở thành rào cản cho sự phát triển, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân và doanh nghiệp. Việc thu hút nhân tài trong, ngoài nước cần được thúc đẩy, cùng với việc phát triển nguồn nhân lực có tư duy sáng tạo, đáp ứng các yêu cầu của nền kinh tế số và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

5)Chống lãng phí;

Cần đẩy mạnh phòng, chống lãng phí tương đương với chống tham nhũng, tiêu cực. Các biện pháp cần bao gồm việc nhận diện lãng phí và xử lý nghiêm các hành vi gây thất thoát, lãng phí tài sản công. Các cơ quan chức năng phải rà soát, sửa đổi các quy định pháp luật không còn phù hợp, đảm bảo quản lý và sử dụng tài sản công một cách hiệu quả, đồng thời phải giải quyết dứt điểm các dự án trọng điểm quốc gia đang gây thất thoát lớn.

 

6) Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực.

Phẩm chất và năng lực của cán bộ trong giai đoạn cách mạng mới phải được nâng cao để đáp ứng yêu cầu của thời đại. Bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng và tinh thần dám nghĩ, dám làm là những yếu tố then chốt. Cán bộ cần có sự quyết tâm, sẵn sàng dấn thân, hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích quốc gia, luôn đặt lợi ích dân tộc và nhân dân lên hàng đầu. Cán bộ phải có khả năng đổi mới, loại bỏ những tư duy cũ kỹ và giải quyết các vấn đề ách tắc trong thực tiễn; có năng lực cụ thể trong việc triển khai các chiến lược lớn của Đảng vào thực tiễn, như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển hạ tầng chiến lược, cải cách thủ tục hành chính. Cần đổi mới mạnh mẽ các khâu tuyển dụng, đào tạo, đề bạt và luân chuyển cán bộ theo hướng thực chất, tìm người phù hợp cho công việc dựa trên các kết quả cụ thể. Có cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ có tư duy đổi mới và sẵn sàng đột phá vì lợi ích chung. Cần sàng lọc, đưa ra khỏi vị trí công tác những người không đủ phẩm chất, năng lực và uy tín.

 

7) Phát triển kinh tế số, kinh tế xanh.

Để phát triển kinh tế, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, bẫy thu nhập trung bình, cần đột phá mạnh mẽ hơn về thể chế phát triển, tháo gỡ điểm nghẽn, rào cản, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, huy động, khơi thông mọi nguồn lực bên trong, bên ngoài, nguồn lực trong dân, phát triển khoa học và công nghệ đồng bộ, thông suốt, tất cả vì sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước và phát triển nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; đồng bộ và đột phá trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội là ưu tiên cao nhất. Thúc đẩy việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu. Phát triển lực lượng sản xuất mới, kết hợp giữa nguồn nhân lực chất lượng cao với tư liệu sản xuất mới, hạ tầng chiến lược về giao thông, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, gắn với hoàn thiện quan hệ sản xuất, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo làm động lực chính cho phát triển.

 

Nhìn lại lịch sử của dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng từ năm 1945, chúng ta tự hào về những thắng lợi vẻ vang qua những kỷ nguyên của dân tộc. Phía trước, có nhiều thuận lợi và khó khăn nhưng một kỷ nguyên mới đã mở ra, đây là thời kỳ cơ hội chiến lược quan trọng, giai đoạn nước rút để kiến tạo kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam; hiện thực hóa các mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030, nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045, và khát vọng xây dựng nước Việt Nam “sánh vai các cường quốc năm châu” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hằng mơ ước.

 

TS Lê Thị Thúy

Hội đồng Lý luận Trung ương



[1] https://www.oecd.org/en/about/members-partners.html

[2] https://baomoi.com/tong-bi-thu-to-lam-the-gioi-phat-trien-chung-ta-khong-the-cham-duoc-c50557384.epi

[3] https://tcnn.vn/news/detail/66970/Co-so-dinh-vi-muc-tieu-dua-dat-nuoc-buoc-vao-ky-nguyen-moi-va-nhung-dinh-huong-chien-luoc.html

Tag:

File đính kèm