Sign In

Xây dựng hệ giá trị văn hóa con người Việt Nam trong đường lối, chính sách phát triển văn hóa của Đảng

09:35 22/05/2023

 

Mỗi một cộng đồng tộc người hay một dân tộc, quốc gia trong quá trình hình thành và phát triển nhất thiết phải tạo dựng cho mình những giá trị riêng. Những giá trị này được bồi đắp, kết tinh thành hệ thống tinh hoa văn hóa, từ đó tạo nên bản sắc tộc người, bản sắc dân tộc và quốc gia. Bản sắc này là nền tảng, điểm tựa cho phát triển ở mọi thời đại, tạo ra sự ổn định lâu dài cho quốc gia, dân tộc đó. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, đa văn hóa, có quá trình hình thành và phát triển gắn với các biến cố lịch sử như: bị xâm chiếm, đô hộ và âm mưu đồng hóa văn hóa... Lịch sử dân tộc và văn hóa Việt Nam đã chứng minh, trải qua hơn 1.000 năm Bắc thuộc và 100 năm cai trị của thực dân Pháp, dân tộc Việt Nam vẫn giành lại được độc lập, vẫn giữ được bản sắc riêng của mình. Đó chính là nhờ vào nền tảng hệ giá trị văn hóa của con người Việt Nam được tạo dựng qua nhiều thế hệ, trở thành "bản năng văn hoá” không chịu khuất phục, nô dịch và đồng hóa.

 

Tuy nhiên, trong bối cảnh đương đại, dưới tác động của toàn cầu hóa và sức mạnh của công nghệ thông tin, Internet kết nối vạn vật, truyền thông đa phương tiện, mạng xã hội... đã và đang đặt ra những thách thức lớn về kiến tạo và giữ gìn bản sắc. Nhằm tạo lập những giá trị riêng của con người Việt Nam làm hành trang cho hội nhập và phát triển, chống lại các biểu hiện "tự diên biến, tự chuyển hóa” về văn hóa dân đến tự nô dịch về văn hóa.

Bài viết này góp phần làm sâu sắc thêm nhận thức về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của xây dựng hệ giá trị văn hóa con người Việt Nam, trên cơ sở những phân tích thực tiễn và chính sách phát triển văn hóa của Đảng và Nhà nước thể hiện trong các văn kiện của Đảng về văn hóa, từ khi Đảng ra đời lãnh đạo cách mạng Việt Nam đến nay.

 

1. Khái niệm hệ giá trị và hệ giá trị văn hóa con người Việt Nam

  • Thuật ngữ “Hệ giá trị” và “Hệ giá trị văn hoá” có thể được nhìn từ nhiều góc độ khác nhau, bao gồm trong nó nhiều loại giá trị khác nhau: có loại giá trị cốt lõi, có giá trị phổ quát, có loại giá trị chung nhân loại, có loại giá trị dân tộc - quốc gia, có loại giá trị cộng đồng tộc người, có loại giá trị cá thể, có loại giá trị xã hội, có loại giá trị con người,... Trong mỗi loại giá trị như vậy lại có nhiều giá trị nhỏ khác nhau. Bản thân mỗi giá trị phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, không cố định, có giá trị chỉ là giá trị trong một giai đoạn lịch sử nào đó.
  • Hệ giá trị văn hóa phản ánh và thể hiện một cách sống động toàn bộ cuộc sống con người trong suốt quá trình lịch sử. Văn hóa tạo nên một hệ thống các giá trị truyền thống bao gồm thẩm mỹ và lối sống, từ đó từng dân tộc xây dựng nên bản sắc riêng của mình. "Văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị tinh thần và vật chất do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội".

    Trong Bách khoa toàn thư văn hóa học thế kỷ XX của Nga xuất bản năm 1998 coi "giá trị" là những thành tố quan trọng nhất của văn hóa con người bên cạnh các chuẩn mực và các lý tưởng[2].

  • Hệ giá trị văn hóa con người Việt Nam.

    Theo cách tiếp cận con người là chủ thể, là trung tâm của văn hóa, và cũng từ bản chất và đặc trưng của con người mà hình thành giá trị văn hóa. Theo đó, giá trị văn hóa cũng là những phương diện thể hiện giá trị con người ở những lát cắt và bình diện khác. Trên thế giới, ở tất cả các nước, chính giá trị con người (và giá trị công dân) là nền tảng gốc rễ cơ bản để hình thành giá trị văn hóa và giá trị xã hội.

    Hệ giá trị văn hóa con người nói một cách hình ảnh, có thể mô tả mối quan hệ của nó với hệ giá trị xã hội như ba vòng tròn đồng tâm, mà vòng trong cùng là hệ giá trị con người, vòng thứ hai là hệ giá trị văn hóa, còn vòng thứ ba ngoài cùng là hệ giá trị xã hội. Như vậy, trong mối quan hệ biện chứng mang tính bản chất đó, trên thực tế, ở tầm quốc gia (dân tộc) sẽ là các giá trị tổng hợp chứa đựng cả giá trị con người, giá trị văn hóa, giá trị xã hội đặc trưng của một quốc gia (dân tộc) trong một giai đoạn phát triển nào đó. Đối với nước ta, có thể gọi đó là hệ giá trị con người Việt Nam đặc trưng của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa[3].

    Trong mỗi giai đoạn phát triển, hệ giá trị con người - giá trị văn hóa - giá trị xã hội được cấu trúc bởi ba cấu phần chủ yếu: những giá trị truyền thống được lưu giữ lại từ quá khứ; những giá trị hiện tại do điều kiện khách quan quy định và những giá trị định hướng cho sự phát triển trong giai đoạn mới (mà hiện thời chưa đóng vai trò chủ đạo chi phối sự phát triển).

    Hình thức thể hiện giá trị văn hóa, giá trị xã hội của con người thường được khái quát dưới dạng trừu tượng như: đạo đức, phong tục - tập quán, tâm linh, pháp luật, thiết chế, lợi ích (lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần)...

2. Chính sách phát triển văn hóa của Đảng từ khía cạnh phát triển con người

Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo, trong bối cảnh xã hội Việt Nam lúc đó, khi "văn hóa nửa phong kiến, nửa tư sản và hoàn toàn có tính cách thuộc địa” thống trị, thì sự ra đời của "Đề cương về văn hóa Việt Nam” là cương lĩnh văn hóa đầu tiên của Đảng chỉ lối và định hướng tư tưởng, nhận thức, phương châm hoạt động văn hóa, văn nghệ cho toàn Đảng, toàn dân và cuộc đấu tranh cách mạng ở Việt Nam. Khi đó, Đảng ta xác định xây dựng nền văn hóa Việt Nam: Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập); Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng); Khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ). Trong đó, yếu tố dân tộc được ưu tiên số một, thể hiện tầm nhìn của Đảng đối với nguy cơ văn hóa dân tộc bị thực dân, đế quốc ngoại lai nô dịch, đồng hóa, bản sắc, bản lĩnh con người Việt Nam có thể bị xóa nhòa, từ đó tinh thần độc lập dân tộc suy yếu. Từ văn kiện này, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, chính sách văn hóa của Đảng ngày càng được khẳng định tính xuyên suốt, hệ thống và sáng tỏ. Trong phát triển văn hóa, ở mọi giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng yếu tố con người làm then chốt, mọi nguồn lực kinh tế, văn hóa phục vụ cho mục tiêu phát triển con người Việt Nam, kiến tạo bản lĩnh, bản sắc văn hóa con người Việt Nam phục vụ cho phát triển đất nước hùng cường về kinh tế và văn hóa.

 

Yếu tố con người trong đường lối văn hóa của Đảng một lần nữa được khẳng định trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 7/1998). Đây là giai đoạn đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, mở cửa giao lưu quốc tế toàn diện và mạnh mẽ. Ở thời kỳ này, nhiều yếu tố văn hóa, lối sống ngoại lai du nhập vào Việt Nam, trong đó có cả yếu tố độc hại. Nguy cơ ảnh hưởng xấu đến tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống của con người Việt Nam, đặc biệt là giới trẻ đã hiện hữu. Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII là văn kiện có tính bao quát, hệ thống, khoa học, đã nhận diện, chỉ ra và xác định rõ mục tiêu phát triển văn hóa và con người Việt Nam. Nghị quyết cũng đã kịp thời điều chỉnh đường lối văn hóa của Đảng phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước trong bối cảnh đổi mới toàn diện nền kinh tế, xã hội và văn hóa, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước. Nghị quyết xác định, xây dựng con người Việt Nam:

      "- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

  • Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
  • Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
  • Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
  • Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực”[4].

Đường lối văn hóa với trọng tâm là xây dựng con người Việt Nam tiếp tục được Đảng ta khẳng định và phát triển trong các văn kiện của Đảng tại các kỳ đại hội như: Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục khẳng định: "... Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội"[5].

 

Đến Đại hội X của Đảng, với quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, những yêu cầu về tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và việc xây dựng, hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế,... Bước phát triển trong quan điểm của Đảng về văn hóa thời kỳ này là nhấn mạnh mục tiêu hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Đại hội xác định nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.

 

Đại hội XI khẳng định phương hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Đại hội đề ra mục tiêu cho giai đoạn tiếp theo là xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật.

 

Năm 2014, Đảng ta tiếp tục ban hành Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về "xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” và một lần nữa khẳng định mục tiêu: xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.

 

Năm 2015, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng ta tiếp tục khẳng định đường lối nhất quán: "Gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước; gắn xây dựng môi trường văn hóa với xây dựng con người; bước đầu hình thành những giá trị mới về con người với các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, dân chủ, chủ động, sáng tạo, khát vọng vươn lên”[6]. Mục tiêu được đề ra là: Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học, trong đó, "xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện" phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển.

 

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) nhấn mạnh: "... tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước"[7]. Một lần nữa vai trò của con người Việt Nam được khẳng định là sức mạnh nội sinh quan trọng nhất để phát triển đất nước. Đây chính là nhận thức mới của Đảng về mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ giữa văn hóa với con người, nhấn mạnh hơn đến vai trò của con người với tính chất là chủ thể, cũng là mục đích của phát triển văn hóa. Phát triển văn hóa chính là phát triển con người và ngược lại. Cùng với chủ trương gắn kết chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, sự tăng cường, gắn kết xây dựng con người và nền văn hóa trong một thể thống nhất sẽ là cơ sở vững chắc để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển, không chỉ làm cho văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần, mà còn trở thành sức mạnh nội sinh cho sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.

 

Xây dựng các hệ giá trị, chuẩn mực trong lĩnh vực văn hóa và con người, các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII không chỉ đặt ra vấn đề đúc kết, xây dựng hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị con người Việt Nam, mà còn nhấn mạnh, làm rõ hơn yêu cầu về xây dựng "hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người" gắn với giữ gìn, phát triển "hệ giá trị gia đình Việt Nam" trong thời kỳ mới. Trong việc giáo dục, bồi dưỡng, xây dựng con người Việt Nam, Báo cáo chính trị nêu rõ một nội dung mới, đó là: "Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại"[8]. Đây là lần đầu tiên văn kiện của Đảng đặt vấn đề khắc phục các hạn chế trong mối quan hệ hữu cơ, không tách rời với việc giáo dục, phát huy những đức tính tốt đẹp của con người Việt Nam đã được hình thành trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Đó chính là một bước nhận thức mới rõ hơn, sâu sắc và toàn diện hơn về văn hóa và con người Việt Nam, vừa khẳng định những giá trị tốt đẹp, tích cực, có ý nghĩa căn bản và quyết định làm nên bản sắc văn hóa và con người Việt Nam, vừa nhìn thẳng vào sự thật với tinh thần tự phê bình, phê bình nghiêm khắc.

 

 

3. Nhận diện hệ giá trị văn hóa con người Việt Nam

Giá trị văn hóa là nguồn tài nguyên, nguồn lực vô cùng quan trọng của môi quốc gia, địa phương và môi tộc người trong quá trình xây dựng và phát triển. Tuy nhiên, trong đời sống thường nhật chúng ta không dê dàng nhận diện được một cách toàn diện hệ thống các giá trị văn hóa của một dân tộc, một quốc gia. Vì thế, ở nhiêu địa phương thường gặp không ít khó khăn trong xác định quy hoạch, phát triển gắn với bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa với các câu hỏi thường gặp như: Cái gì là giá trị? Cái gì phải bảo tồn? Phát huy cái gì?... Trong chiến lược phát triển văn hóa gắn với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đặt ra vấn đề phương pháp, cách tiếp cận và một số quan điểm khoa học trong nghiên cứu nhận diện hệ giá trị của văn hóa hiện nay.

 

Hệ giá trị văn hóa con người Việt Nam gồm các giá trị do chính con người thuộc cộng đồng 54 dân tộc sáng tạo ra trong quá khứ và hiện tại (có tính lịch sử). Chuẩn mực (thường là về đạo đức: core values, code of ethics) là những giá trị mà con người hướng tới trong hiện tại và tương lai. Giá trị văn hóa con người Việt Nam theo thời gian kết tinh thành hệ thống các giá trị văn hóa, trong đó không chỉ biểu hiện ở khía cạnh vật chất là những di sản văn hóa đến từ quá khứ, mà còn là các sinh hoạt văn hóa mang hơi thở của cuộc sống hôm nay, là một bộ phận hữu cơ của đời sống các cộng đồng dân cư trong môi làng bản, mỗi gia đình. Giá trị văn hóa con người Việt Nam là yếu tố cấu thành bản sắc tộc người bao gồm: tri thức, tín ngưỡng, đạo đức, nghệ thuật, luật pháp, tập quán, sinh hoạt... là sự thể hiện bản chất năng lực con người với tính cách là thành viên của cộng đồng xã hội.

 

Hệ giá trị văn hóa con người Việt Nam ở đây được hiểu là bao gồm toàn bộ các giá trị vật thể và phi vật thể cốt lõi, được kết tinh từ các mối quan hệ xã hội của con người, mỗi tộc người được hình thành do quá trình cư trú, hoạt động của họ tác động vào thế giới tự nhiên cụ thể mà tạo ra, nhằm thỏa mãn các nhu cầu sống, nhu cầu tồn tại và phát triển của mình. Trên ý nghĩa đó, chúng ta có thể nhận thấy các giá trị văn hóa con người của 54 tộc người Việt Nam gồm: các loại hình văn hóa gắn với tập quán cư trú, kiến trúc nhà ở, làng bản gắn với môi trường, các tri thức dân gian về môi trường và tài nguyên; các luật tục quy định các nếp sống của cộng đồng; dân ca, dân vũ; hoạt động kinh tế của mỗi tộc người, của các cộng đồng tộc người với những mức độ khác nhau trong quá trình nông thôn hóa, đô thị hóa... Các yếu tố của các loại hình văn hóa trên biểu hiện rất đa dạng, phong phú, giàu bản sắc và là tài sản, là nguồn vốn hữu hình và vô hình của cộng đồng, dân tộc và địa phương, đây chính là nguồn tài nguyên cho phát triển.

 

Trước hết phải khẳng định, nhận diện giá trị văn hóa con người Việt Nam hiện nay là công việc khó khăn, phức tạp. Thực tế công tác nghiên cứu, đánh giá giá trị văn hóa ở Việt Nam nói chung và giá trị văn hóa con người Việt Nam nói riêng cho thấy thời gian qua chúng ta đã có các phương pháp khoa học để nhận diện giá trị. Tuy nhiên, những nghiên cứu nhận diện thường chỉ hiệu quả với các công trình, di sản văn hóa đã bảo tồn "tĩnh", độc lập, ít liên đới đến đời sống đương đại như: các di tích lịch sử, di tích kiến trúc nghệ thuật.., còn với các di sản văn hóa "sống" liên quan đến bản sắc, bản tính, phẩm chất con người thì việc nhận diện chưa thật sự được nhìn nhận đầy đủ và còn nhiều tranh luận.

 

Đối với văn hóa con người Việt Nam, cần có quan điểm nhìn nhận giá trị theo hướng tích hợp của văn hóa. Trong bối cảnh văn hóa Việt Nam đương đại hiện hữu với đặc trưng di sản truyền thống và cuộc sống đương đại đan xen, tiếp nối và đang tiếp diễn, chúng ta có thể xác định nhận diện ba nhóm giá trị:

 

  • Giá trị tự thân của văn hóa tộc người: Đó là các giá trị kiến trúc, nghệ thuật nhà cửa, làng bản, các công trình thủy lợi, công trình phòng thủ...
  • Giá trị lịch sử: Giá trị về niên đại thể hiện sự hiếm có của di sản văn hóa còn lại qua thời gian, thể hiện sự tiêu biểu của hiện vật với một giai đoạn lịch sử, công trình hay không gian là chứng tích cho những sự kiện lịch sử...
  • Giá trị kế thừa, tiếp biến trong đời sống đương đại: Nếu nhìn về thời gian, coi là gốc của di sản thì giá trị này chưa hình thành, mà được hình thành dần cho đến ngày hôm nay. Nó bao gồm giá trị cảnh quan sinh thái như: địa chất, địa mạo, cây xanh, mặt nước, địa hình... Các yếu tố này có sự biến đổi theo thời gian bởi sự tác động của con người trong quá trình sinh tồn.
  • Giá trị dấu ấn nơi chốn tạo bản sắc, tính biểu tượng cho khu vực: Nó không hẳn là giá trị lịch sử bởi có thể được tái hiện, tái tạo hoặc phục dựng phần vỏ để giữ phần hồn. Một chiếc cổng vào bản được xây mới, không đặt ở vị trí cũ vẫn mang giá trị dấu ấn nơi chốn, tạo bản sắc cho môi thôn bản của môi cộng đồng tộc người vì nó đã chuyển hóa thành giá trị biểu tượng về tính riêng của làng bản dân tộc trong đời sống đương đại.
  • Giá trị tạo lập môi trường sống, sinh thái, sinh thái nhân văn: Giá trị này có tính động rất cao. Hệ thống sông, suối, hồ nước bao quanh làng bản truyền thống có vai trò tạo lập cân bằng hệ sinh thái nước, bảo đảm canh tác nương rây, ruộng bậc thang, tạo sự đa dạng sinh học.
  • Giá trị văn hóa xã hội đương đại: Đã có sự chuyển biến của các giá trị truyền thống trong đời sống đương đại như các công trình kiến trúc nhà truyền thống đã được hoán cải một số kết cấu kiến trúc, được xây dựng bằng các vật liệu mới, được lắp đặt các thiết bị công nghệ tiện nghi, phục vụ nhu cầu của người dân trong đời sống đương đại. Vì vậy, nhận diện giá trị của chúng cho mục tiêu bảo tồn và phát triển cũng phải đặt trong câu hỏi, liệu chúng có giá trị gì trong đời sống đương đại, chúng có khả năng tiếp nhận, dung nạp thêm các chức năng mới, phù hợp với cuộc sống đương đại hay không.
  • Giá trị tích hợp, phát triển: Không phải là phép cộng của hệ giá trị thứ nhất và thứ hai như phân tích ở trên. Giá trị văn hóa con người Việt Nam khi tích hợp lại sẽ được nhân lên gấp bội, vì vậy, rất cần nhìn nhận một cách đầy đủ, hệ thống. Nếu giá trị tự thân của văn hóa và di sản dễ dàng nhận diện và có thể bảo tồn, thì giá trị văn hóa con người như tập quán, phong tục, dân ca, dân vũ... đương đại lại có khả năng phát huy phục vụ mục tiêu phát triển gắn với bảo tồn, đây sẽ là thế mạnh của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Vì vậy, nhận diện các giá trị văn hóa tộc người sẽ giúp cho cộng đồng tích hợp đầy đủ, toàn diện của bức tranh văn hóa ở mỗi tộc người, là cơ sở để thực hiện cùng lúc hai mục tiêu bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vì mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Nếu tách di sản văn hóa ra khỏi các giá trị của đời sống đương đại thì khó có thể thực hiện mục tiêu bảo tồn văn hóa tộc người thành công.

4. Xây dựng hệ giá trị văn hóa con người Việt Nam trong bối cảnh đương đại

  • 4.1.Bối cảnh đương đại với văn hóa con người Việt Nam

    Bối cảnh đương đại là xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ do sự phát triển vượt bậc của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong đó phải kể đến sức mạnh của công nghệ thông tin với internet kết nối vạn vật và trí tuệ nhân tạo... Những yếu tố công nghệ này dường như đã xóa nhòa một phần ranh giới quốc gia, ranh giới văn hóa. Mỗi công dân từ các quốc gia tham gia vào hệ thống kết nối này sẽ trở thành một phần của hệ thống. Từ đó tiếp cận, hội nhập, ảnh hưởng, thẩm thấu hệ giá trị chung của hệ thống đó, hình thành nên hệ giá trị công dân toàn cầu. Vấn đề bản sắc quốc gia, dân tộc, vùng miền có thể sẽ mờ nhạt đi. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng tạo ra những thách thức về an ninh, văn hóa chưa từng có đối với mỗi quốc gia, mỗi cộng đồng và với mỗi cá nhân. Đó là sự lệ thuộc vào công nghệ, bị nô dịch và dẫn dắt bởi công nghệ. Từ đó tạo lập các cộng đồng ảo, giá trị ảo nhưng hậu quả đối với an ninh và văn hóa của mỗi đất nước, mỗi cộng đồng và mỗi cá nhân lại là hiện hữu.

  • 4.2.Xây dựng những giá trị chung mang bản sắc quốc gia

    Con người vừa là chủ thể sáng tạo, thụ hưởng văn hóa nhưng cũng là sản phẩm của văn hóa. Vì vậy, văn hóa con người Việt Nam là nguồn lực quan trọng nhất, quyết định nhất trong tất cả các nguồn lực để phát triển đất nước Việt Nam phồn thịnh.

    Văn hóa con người Việt Nam từ trước đến nay đã được nhận diện và khái quát thành hệ giá trị con người Việt Nam với những đặc tính ưu việt là: yêu nước, cần cù sáng tạo trong lao động, đoàn kết trong đấu tranh chống thiên tai, địch hoạ, khéo léo, dễ thích ứng trong lao động và hội nhập... Tuy nhiên, những giá trị trên mang tính phổ quát nhiều hơn, vì vậy chúng ta có thể nhận thấy ở mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Tuy vậy, hệ giá trị chung, phổ quát mang bản sắc quốc gia vẫn rất cần thiết nhận diện, làm rõ những đặc điểm Việt Nam. Từ đó cụ thể hóa nó trong cuộc sống bằng những yêu cầu về chuẩn mực hành vi của mỗi công dân với trách nhiệm xây dựng đất nước, xây dựng hình ảnh văn hóa con người Việt Nam.

  • 4.3.Xây dựng những giá trị riêng mang bản sắc tộc người, vùng miền

Để xây dựng hệ giá trị văn hóa con người Việt Nam trước hết cần nhận thức, nhận diện đầy đủ về nó. Từ trước đến nay chúng ta thường nhấn mạnh đề cao những giá trị chung, phổ quát mà chưa nhận diện, nhận thức đúng, đầy đủ về những giá trị riêng. Giá trị riêng của con người Việt Nam mang bản sắc tộc người, địa phương và vùng miền. Những giá trị riêng này đã giúp cho mỗi cộng đồng tộc người thể hiện, khẳng định bản tính của riêng họ. Bản tính đó được tạo lập từ nhiều thế hệ, được tôi luyện bởi quá trình sinh tồn, tương tác với tự nhiên và với con người, giữa các tộc người với nhau. Từ đó tạo lập những nét văn hóa riêng, khác biệt nhưng không dị biệt hay mâu thuân. Ví dụ, giá trị văn hóa con người của dân tộc Mông là nghị lực kiên cường, thích ứng hòa thuận với môi trường khắc nghiệt của cao nguyên đá khô cằn. Người Mông có câu "sống trên đá chết vùi trên đá” vì vậy họ không bỏ cuộc mưu sinh vất vả, bỏ miền đất mình sinh sống, gắn bó. Hay văn hóa con người miền Trung là nghị lực vượt qua thiên nhiên khắc nghiệt, gắn bó với quê hương, tạo lập những giá trị riêng về tình quê hương gắn kết, hỗ trợ nhau cùng phát triển...

 

Trong nguồn lực văn hóa thì nguồn lực con người phải được nhận diện là quan trọng nhất, quyết định nhất. Nguồn lực văn hóa con người chính là hàm lượng văn hóa trong hành vi của mỗi con người. Biểu hiện là những phẩm chất, thái độ, tính cách, ý thức trách nhiệm... Như đã đề cập ở trên, những phẩm chất của con người Việt Nam ngoài những yếu tố mang tính phổ quát như chịu khó, khéo léo, dễ thích ứng..., thì cần chú trọng nhận diện những giá trị riêng của văn hóa con người Việt Nam mang nét địa phương, vùng miền và tộc người. Từ đó, xây dựng nên hệ giá trị văn hóa con người mang tính địa phương, vùng miền, tộc người trong tổng thể hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam.

 

Việc nhận diện những giá trị văn hóa con người Việt Nam, đồng thời song hành với nhận diện những thói xấu mang tập quán vùng miền, địa phương và tộc người... mà từ trước đến nay là vật cản cho sự phát triển. Vấn đề này hết sức nhạy cảm và còn nhiều bàn luận. Vì vậy, cần được tiếp cận nghiên cứu ở cả hai phương diện khoa học và văn hóa. Để rồi xây dựng những chiến lược giáo dục, rèn luyện tôn vinh cái đẹp, cái tích cực, hạn chế, loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực trong văn hóa con người Việt Nam đương đại.

 

Kết luận

- Ở mọi thời đại, mọi quốc gia, dân tộc và mọi nền văn hóa, sự phát triển hay diệt vong đều có nguồn gốc từ yếu tố con người. Con người là chủ thể sáng tạo, là trung tâm, là yếu tố quyết định các giá trị do chính con người tạo lập và cũng chính con người là tác nhân huỷ hoại những giá trị đó. Vì vậy, xây dựng văn hóa con người Việt Nam là yếu tố then chốt, sống còn, lâu bền trong chiến lược xây dựng đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.

- Đảng và Nhà nước phải trở thành nhân tố then chốt - quyết định trong việc hình thành và phát triển hệ giá trị văn hóa con người Việt Nam, làm động lực nội sinh mạnh mẽ cho việc thực hiện tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nhanh và bền vững đất nước.

- Xây dựng hệ giá trị văn hóa con người Việt Nam phải dựa trên nền tảng hệ giá trị chung của quốc gia; chắt lọc, kế thừa phát triển và ngày càng hoàn thiện từ các giá trị văn hóa con người Việt Nam đã được tạo dựng, thử thách và được khẳng định qua thời gian.

- Xây dựng hệ giá trị văn hóa con người Việt Nam phải là sự kết tinh, hòa quyện từ các giá trị văn hóa chung, phổ quát của dân tộc, nhân loại với các giá trị văn hóa riêng có của mỗi cộng đồng, tộc người, địa phương, để từ đó khai thác, phát huy thế mạnh của những nét riêng.

- Hệ giá trị văn hóa con người Việt Nam phải được cụ thể hóa thành các tiêu chí, mục tiêu phấn đấu của mỗi con người, mỗi cộng đồng, tộc người, trở thành niềm kiêu hãnh, sức mạnh và khả năng "đề kháng, miễn dịch” trước những tác động của toàn cầu hóa và nô dịch văn hóa.

- Hệ giá trị văn hóa con người Việt Nam phải trở thành hệ giá trị công dân Việt Nam trong bối cảnh phát triển mới. Kiến tạo con người Việt Nam với những phẩm chất, năng lực và bản lĩnh... có thể đối mặt, đương đầu với những thách thức, khó khăn trong xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước phồn vinh, sánh vai với các cường quốc trên thế giới.

 

PGS.TS. PHẠM VĂN DƯƠNG[1]

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • [1]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013.
  • [2]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.126.
  • [3]Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lân thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
  • [4]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
  • [5]Đại Bách khoa toàn thư Xôviết (tiếng Nga, 30 tập).
  • [6]Phạm Minh Hạc: Giá trị học, Nxb. Dân trí, Hà Nội, 2012.
  • [7]Lương Đình Hải: "Những tiêu chí cơ bản của con người Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế' hiện nay”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 10 và 11.
  • [8]Mạch Quang Thắng: "Một số vấn đề về xây dựng con người Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 8.
  • [9]Trần Ngọc Thêm: Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 2004.
  • [10]Từ điển Bách khoa triết học mới (tiếng Nga, 4 tập), 2001.
  • [11]Từ điển http://www.Oxforddictionaries.com/value, truy cập tháng 12/2014.
  • [12]Từ điển http://www.thefreedictionary.com/value, truy cập tháng 12/2014.

 



[1] Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

[2]       Xem Trần Ngọc Thêm: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 1996, tr.27.

[3]       Xem PGS. TSKH. Lương Đình Hải: "Xây dựng hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", https://vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/xay-dung-he-gia-tri-viet-nam-trong-giai- doan- hien-nay-15.

[4]       Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.58-59.

[5]       Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng thời kỳ đôi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013, tr.356-357.

[6]       Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.123.

[7]       Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, t.II, tr.330.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.143.

Tag:

File đính kèm