Sign In

Về nhận thức và giải quyết các mối quan hệ mang tính quy luật trong quá trình đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: Mối quan hệ giữa ổn định và phát triển

21:35 02/04/2023

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm nơi in tranh dân gian Đông Hồ tại Di tích lịch sử - văn hóa Đền Đô ở khu phố Thượng, phường Đình Bảng, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh _Ảnh: TTXVN

 

1 - Nhận thức về những mối quan hệ lớn cần phải nắm vững và giải quyết tốt trong thực tiễn xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc là một trong những thành tựu quan trọng trong phát triển tư duy lý luận của Đảng lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa gần 50 năm qua. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011), trên cơ sở tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, đã thông quan Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó, lần đầu tiên Đảng đã chỉ ra rằng trong lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần phải nắm vững và giải quyết tốt 8 mối quan hệ lớn: “Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.”[1]

 

Sau 5 năm thực hiện, Đại hội XII của Đảng (2016) đã có những nhận thức mới, bổ sung, phát triển thêm những mối quan hệ lớn cần phải quán triệt và xử lý tốt: mối quan hệ “giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa” được bổ sung, phát triển thành mối quan hệ “giữa tuân theo các quy luật của thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa”.[2] Đồng thời, Đại hội bổ sung thêm một mối quan hệ lớn nữa vào 8 mối quan hệ mà Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu, là “mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường”.[3] Mối quan hệ này, tiếp tục được Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa XII, năm 2017) bổ sung, phát triển thành “mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội” (thêm thành tố xã hội). Đến Đại hội XIII của Đảng (2021), nhận thức về những mối quan hệ lớn cần nắm vững và xử lý tốt trong lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc tiếp tục có những bổ sung, phát triển mới. Mối quan hệ “giữa đổi mới, ổn định và phát triển” của Đại hội XI và Đại hội XII, được chuyển thành quan hệ “giữa ổn định, đổi mới và phát triển”[4] (ổn định được đưa lên trước đổi mới); mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội” của Đại hội XI và Đại hội XII được bổ sung thêm thành tố “bảo vệ môi trường” để trở thành mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”.[5] Đồng thời, Đại hội bổ sung thêm một mối quan hệ lớn mới vào 9 mối quan hệ lớn mà Đại hội XII đã nêu ra, là quan hệ “giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”[6] để tạo thành 10 mối quan hệ lớn cần phải tiếp tục nắm vững và xử lý tốt trong lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đó là: “Quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo quy luật thị trường và bảo đảm định hướng XHCN; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”.[7] Việc nắm vững, quán triệt và giải quyết đúng đắn những mối quan hệ lớn này trong lãnh đạo, chỉ đạo ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực đã góp phần quan trọng để đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong 40 năm đổi mới, 50 năm từ ngày đất nước thống nhất đến nay.

 

Trong 10 mối quan hệ lớn cần phải nắm vững, quán triệt thực hiện đúng đắn, mối quan hệ lớn đầu tiên là quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển. Ổn định của đất nước bao gồm ổn định chính trị, kinh tế, xã hội trong nước và ổn định môi trường, quan hệ với bên ngoài. Ổn định môi trường bên ngoài là giữ vững môi trường hòa bình, quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và trên thế giới. Ở trong nước, ổn định chính trị là giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, vai trò quản lý của Nhà nước đối với mọi tổ chức và công dân, mọi hoạt động của xã hội, hoạt động đối nội, đối ngoại của đất nước; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển của đất nước, ổn định các quan hệ dân tộc, tôn giáo, v.v., không để xảy ra rối loạn, xung đột, làm mất ổn định chính trị. Ổn định kinh tế là giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định thị trường, giá cả hàng hóa, dịch vụ, ổn định tài chính, tiền tệ, ổn định giá trị của đồng tiền, kiềm chế không để xảy ra lạm phát; giữ vững các cân đối lớn của nền kinh tế, như: cân đối cung - cầu các loại hàng hóa, dịch vụ; cân đối vật tư, nguyên liệu, năng lượng, cơ sở hạ tầng với năng lực sản xuất; cân đối sản xuất và tiêu dùng, tích lũy và đầu tư, xuất khẩu và nhập khẩu, thu và chi ngân sách, vay và trả nợ trong và ngoài nước; giữ vững ổn định môi trường đầu tư, kinh doanh để thu hút đầu tư, tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế; ổn định sản xuất, lưu thông trong các ngành, các lĩnh vực, v.v., không để nền kinh tế rơi vào khủng hoảng, rối loạn hay suy thoái, trì trệ. Ổn định xã hội là giữ vững trật tự, an toàn xã hội, cuộc sống bình yên của nhân dân; luật pháp, kỷ luật, kỷ cương, đạo đức xã hội được tôn trọng, thực hiện nghiêm túc; dân chủ xã hội, quyền làm chủ của nhân dân được đảm bảo, mọi thành viên xã hội đều được hưởng thụ thành quả phát triển đất nước; quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo hài hòa, bình đẳng, đoàn kết, hợp tác, xã hội đồng thuận, các mâu thuẫn xã hội được phát hiện, giải quyết kịp thời, không để trở thành điểm nóng, trở thành xung đột, gây mất trật tự, an ninh, mất ổn định xã hội.

 

Đổi mới là chuyển cái cũ thành cái mới (trạng thái cũ thành trạng thái mới, kết cấu cũ thành kết cấu mới, v.v.) tốt hơn, cao hơn. Đổi mới luôn gắn với sự thay đổi, phát triển, là thuộc tính vốn có của các cơ thể sống, các hệ thống xã hội. Đổi mới có thể là quá trình diễn ra tự động, tự phát, tuần tự, xuất phát từ bên trong, từ bản chất nội tại, khách quan của cơ thể sống, của hệ thống xã hội. Đổi mới có thể là một quá trình tự giác, diễn ra do sự tác động chủ quan, có chủ đích, đột biến để phá vỡ, thay thế trạng thái cũ, kết cấu cũ, trì trệ, sai lầm, cản trở sự phát triển, tạo ra kết cấu mới, trạng thái mới, tiến bộ, phù hợp, thúc đẩy sự phát triển. Đổi mới trong mối quan hệ với ổn định và phát triển được xem xét ở đây, là đổi mới đất nước với những chủ trương, đường lối, biện pháp mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo để phát triển đất nước. Đó là quá trình đổi mới mang tính cách mạng, toàn diện, trên mọi lĩnh vực nhưng có bước đi phù hợp với tình hình và yêu cầu của đất nước trong từng thời kỳ. Đổi mới được bắt đầu từ đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thoát khỏi tư duy, nhận thức cũ, lạc hậu, sai lầm[8], đưa đất nước vào trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm sau ngày thống nhất đất nước; hình thành những nhận thức mới, quan điểm mới về bản chất, đặc trưng của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng và con đường mới, những phương hướng mới cần thực hiện để đi đến mục tiêu đó. Quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với yêu cầu phát triển của đất nước, với lợi ích của nhân dân, được Nhà nước thể chế hóa thành luật pháp, chính sách, đã được nhân dân ủng hộ, tích cực thực hiện. Trong đường lối đổi mới của Đảng, lĩnh vực được đổi mới đầu tiên là lĩnh vực kinh tế để đáp ứng đòi hỏi cấp bách là cải thiện đời sống của nhân dân đang hết sức khó khăn; sau đó, đổi mới từng bước được mở rộng sang các lĩnh vực khác, như văn hóa, xã hội, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Đổi mới ngày càng được thực hiện đồng bộ, toàn diện, ngày càng đi vào chiều sâu, là một quá trình liên tục, không ngừng.

 

Phát triển trong quan hệ với ổn định và đổi mới là sự phát triển của đất nước trên tất cả các lĩnh vực. Kinh tế phát triển là kinh tế có tốc độ tăng trưởng GDP cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, trình độ khoa học công nghệ thường xuyên đổi mới phù hợp với sự phát triển của thời đại; có năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao trên thị trường khu vực và thế giới; các tiềm năng, lợi thế, các nguồn lực của đất nước được huy động và sử dụng có hiệu quả; quy mô, trình độ, sức mạnh kinh tế của đất nước, thu nhập bình quân đầu người tăng lên, đời sống nhân dân được cải thiện. Xã hội phát triển là xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, quyền con người, quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm, con người có quyền tự do, bình đẳng, có việc làm, được học tập nâng cao trình độ, được chăm sóc, bảo vệ sức khỏe, an ninh, an toàn, có cuộc sống hạnh phúc, có chất lượng cao cả về vật chất và tinh thần; quan hệ giữa người với người, giữa các giai tầng xã hội, các dân tộc, tôn giáo hài hòa, hữu nghị, hợp tác, tôn trọng lẫn nhau; hệ thống an sinh xã hội, bảo hiểm, hỗ trợ xã hội rộng khắp tới mọi đối tượng; xã hội ổn định, trật tự, an ninh, an toàn; con người sống hòa hợp với thiên nhiên, môi trường sinh thái được bảo vệ, việc khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên được thực hiện bền vững.

 

Mối quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển là mối quan hệ biện chứng, có sự tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau. Trong mối quan hệ này, ổn định là cơ sở, điều kiện để đổi mới, đổi mới là cơ sở, điều kiện để phát triển; phát triển là mục tiêu. Không có ổn định chính trị, kinh tế, xã hội, thì đất nước không có cơ sở, điều kiện để đổi mới, phát triển. Nhưng ổn định không đồng nghĩa với bảo thủ, trì trệ, không muốn thay đổi hay không dám thay đổi, để đất nước lạc hậu, không bắt kịp những bước tiến của thời đại, tụt hậu ngày càng xa so với các nước, tích tụ những mâu thuẫn trong xã hội ngày càng nhiều, ngày càng gay gắt. Ổn định như vậy không chỉ cản trở sự phát triển mà còn tích tụ, nuôi dưỡng nguy cơ xung đột, khủng hoảng, làm mất ổn định chính trị, kinh tế, xã hội. Đó là sự ổn định tiêu cực, không phải là sự ổn định tích cực, không phù hợp với quy luật vận động, thay đổi không ngừng của các sự vật, hiện tượng. Ổn định tích cực là sự ổn định tương đối, ổn định trong quá trình tích lũy về lượng, chuẩn bị cho sự thay đổi về chất, là ổn định không cản trở, mà tạo cơ sở, điều kiện cho đổi mới, phát triển.

 

Ở chiều ngược lại, nếu không có đổi mới thì không có phát triển, không có phát triển thì không thể cải thiện được đời sống nhân dân, không ngăn ngừa, giải quyết được các mâu thuẫn, xung đột xã hội, không thể duy trì được ổn định; do đó, đổi mới, phát triển lại là cơ sở, điều kiện cho việc duy trì sự ổn định bền vững của đất nước. Để đổi mới đưa đến phát triển và ổn định của đất nước, đổi mới phải phù hợp với quy luật khách quan, với xu thế của thời đại, với tình hình cụ thể của đất nước. Chủ trương, đường lối đổi mới phải đúng đắn, xác định đúng phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, có các biện pháp và bước đi phù hợp, không nóng vội, chủ quan, duy ý chí. Ở nước ta, đổi mới để phát triển đất nước nhưng không được xa rời, không được từ bỏ mục tiêu độc lập dân tộc và đi lên xã hội chủ nghĩa mà là nhận thức lại, xác định lại cho đúng đắn bản chất, những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà đất nước sẽ xây dựng và độc lập, tự chủ của đất nước trong thời đại mới; xác định đúng những phương hướng lớn, những cách thức và bước đi, giải pháp mới cần thực hiện để đạt mục tiêu ấy. Bởi vậy, đổi mới phải có nguyên tắc để không rơi vào nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, đánh mất độc lập, tự chủ, cũng như không để đất nước tụt hậu xa hơn với các nước trên thế giới.

 

Không nhận thức và giải quyết đúng mối quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển, không giữ đúng nguyên tắc trong quá trình cải tổ nên sự nghiệp cải tổ ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây đã mắc nhiều sai lầm nghiêm trọng đưa đến sự sụp đổ của Nhà nước Xô Viết, chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước này.

 

Đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư và các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước tham dự Lễ ra mắt cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” _Ảnh: TTXVN

 

2 - Việc giải quyết đúng mối quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển đã góp phần quan trọng để công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo ở nước ta trong gần 40 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Công cuộc đổi mới ở nước ta được bắt đầu khi đất nước còn đang ở trong cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng kéo dài đã nhiều năm, lạm phát cao tới hàng trăm phần trăm mỗi năm; sản xuất đình trệ, thiếu máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu; lương thực, thực phẩm, hàng hoá tiêu dùng khan hiếm, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, làm ảnh hưởng không nhỏ tới ổn định xã hội và lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước. Trong bối cảnh khó khăn đó và sự chống phá của các thế lực thù địch, Đảng, Nhà nước ta đã hết sức quan tâm tới giữ vững ổn định chính trị - xã hội và kìm chế lạm phát, ổn định kinh tế. Rất nhiều giải pháp đã được thực hiện có kết quả, như: đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về sự cần thiết và sự đúng đắn của đường lối đổi mới, tạo được sự đồng thuận xã hội, sự ủng hộ của nhân dân với công cuộc đổi mới; tập trung vào chống lạm phát, ổn định tiền tệ, phục hồi sản xuất, đáp ứng nhu cầu cấp bách của nhân dân về lương thực, thực phẩm, các hàng tiêu dùng thiết yếu cho cuộc sống; phá thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, mở rộng hợp tác quốc tế, v.v. Kết quả là, đất nước đã giữ vững ổn định chính trị xã hội và đến đầu thập kỷ 90 (của thế kỷ trước), vào giữa nhiệm kỳ Đại hội VII của Đảng, đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, tạo ra cơ sở, điều kiện để đẩy mạnh đổi mới, phát triển đất nước.

 

Đổi mới được bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, rồi từ kinh tế, đổi mới được mở rộng sang các lĩnh vực khác, tiến tới đổi mới toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực. Đây là chủ trương, bước đi đúng đắn, đáp ứng được yêu cầu ổn định và phát triển. Đến nay, khi đổi mới đã được thực hiện toàn diện, đồng bộ ở các lĩnh vực thì đổi mới để phát triển kinh tế - xã hội được xác định là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần, bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Đổi mới, phát triển trong lĩnh vực này tạo điều kiện thuận lợi cho đổi mới, phát triển ở lĩnh vực khác, củng cố sự ổn định, thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Trong lĩnh vực kinh tế, đổi mới để phát triển được thực hiện theo những phương hướng và nội dung lớn: Chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Trên từng hướng, từng nội dung, đổi mới cũng được tiến hành từng bước từ hẹp đến rộng, từ nông đến sâu, từ những vấn đề cấp bách trước mắt đến những vấn đề cơ bản, lâu dài.

 

Đổi mới để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bắt đầu bằng việc xoá bỏ những trói buộc đối với người sản xuất kinh doanh của cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, giao cho họ quyền tự chủ; xoá bỏ những “ngăn sông, cấm chợ”, cho phép tự do lưu thông hàng hoá, tiêu thụ sản phẩm và phát triển kinh tế nhiều thành phần, phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; hình thành và phát triển các thị trường (thị trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường tài chính tiền tệ, thị trường chứng khoán); thị trường giữ vai trò chủ yếu trong xác định giá cả, điều tiết lưu thông hàng hoá, điều tiết hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đào thải những doanh nghiệp yếu kém. Vai trò và phương thức quản lý kinh tế của Nhà nước được đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường. Nhà nước quản lý, điều tiết, định hướng phát triển của nền kinh tế bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức và bằng việc sử dụng các nguồn lực kinh tế của Nhà nước mà không can thiệp vào thị trường, vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bằng các biện pháp hành chính. Người dân, các tổ chức xã hội có quyền giám sát hoạt động của doanh nghiệp, của cán bộ, công chức, viên chức, các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện luật pháp, chính sách của Nhà nước; kiến nghị, tác động tới hoạt động của doanh nghiệp và cơ quan Nhà nước, tới việc hoàn thiện luật pháp, chính sách kinh tế của Nhà nước. Quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội tạo nên cơ chế điều tiết hoạt động của nền kinh tế thị trường. Định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường được thể hiện ở việc phát triển nhanh, bền vững, có hiệu quả và sức cạnh tranh cao, gắn kết chặt chẽ với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái; vừa thực hiện phân phối theo sự đóng góp các yếu tố vào quá trình sản xuất kinh doanh, vừa phát triển hệ thống bảo hiểm, hệ thống an sinh xã hội rộng khắp, khuyến khích làm giàu hợp pháp, đồng thời quan tâm tới xoá nghèo v.v.

 

Công nghiệp hoá để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội đã được xác định là nhiệm vụ trung tâm từ Đại hội III của Đảng (1960). Trong thời kỳ đổi mới, khi đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ công nghiệp hoá đất nước lại được đẩy mạnh. Đổi mới đã đưa đến nhiều điểm mới trong nội dung và phương thức công nghiệp hoá. Để phù hợp với đặc điểm mới của thời đại và yêu cầu phát triển của đất nước, công nghiệp hoá được gắn với hiện đại hoá, vừa thực hiện công nghiệp hoá theo nghĩa truyền thống, vừa đi ngay vào hiện đại để rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước đi trước. Khác với trước đây, công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kỳ đổi mới được thực hiện theo cơ chế thị trường, có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, ngoài kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể còn có sự tham gia tích cực, có vai trò rất quan trọng của kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá được triển khai ở tất cả các ngành, lĩnh vực, trên cơ sở ứng dụng những thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh. Một số chủ trương lớn, như: Xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, tập trung phát triển những ngành công nghiệp nền tảng, ưu tiên phát triển những ngành công nghiệp công nghệ cao, những ngành công nghiệp có lợi thế, công nghiệp phục vụ công nghiệp, nông thôn, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh kết hợp phục vụ dân sinh. Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới; phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, ứng dụng công nghệ cao, phát huy tiềm năng, thế mạnh từng vùng, từng địa phương. Gắn kết chặt chẽ nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; sản xuất với bảo quản, chế biến, tiêu thụ, xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị nông sản trong chuỗi giá trị. Phát triển mạnh khu vực dịch vụ theo hướng hiện đại; tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có hàm lượng khoa học công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại; ưu tiên xây dựng các công trình, dự án hạ tầng trọng điểm giao thông, năng lượng, công nghệ thông tin, viễn thông, thuỷ lợi, hạ tầng đô thị, v.v.

 

Phá bỏ bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch và nền kinh tế khép kín, tự cấp, tự túc, chuyển sang mở rộng quan hệ kinh tế thương mại, hợp tác đầu tư, kinh doanh và hội nhập kinh tế quốc tế là một nội dung quan trọng trong đường lối đổi mới kinh tế của Đảng, Nhà nước ta. Đầu tiên là mở rộng quan hệ xuất, nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ với các nước trong khu vực và trên thế giới; thu hút các nguồn vốn hợp tác phát triển chính thức (ODA), vay thương mại từ các nước, các tổ chức quốc tế; tới thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI); ký kết các hiệp định thương mại, đầu tư với các nước, trong đó có các hiệp định thương mại, đầu tư song phương, đa phương thế hệ mới, tham gia ngày càng sâu vào các chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu; tham gia tích cực và trở thành thành viên của nhiều tổ chức kinh tế khu vực và thế giới (IMF, WB, WTO, AEC, APEC, ASEM, v.v.).

 

Lĩnh vực phát triển xã hội và quản lý xã hội có nhiều đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước. Từ quan điểm nhân dân là chủ thể, là mục tiêu của đổi mới, phát triển kinh tế phải gắn kết chặt chẽ với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, Nhà nước xây dựng ngày càng hoàn thiện, đồng bộ luật pháp, chính sách, đổi mới cơ chế huy động đa dạng các nguồn lực đầu tư cho lĩnh vực xã hội, phát triển xã hội hài hoà, bền vững, tạo cơ sở và điều kiện để bảo đảm mọi người bình đẳng về cơ hội phát triển và hưởng thụ thành quả của đổi mới, phát triển đất nước. Quan tâm huy động các nguồn lực đầu tư phát triển vùng khó khăn, kinh tế kém phát triển, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng. Đẩy mạnh hoạt động “xoá đói, giảm nghèo”, quan tâm chăm sóc người già, người có hoàn cảnh khó khăn, người có công; phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội, an sinh xã hội rộng khắp đến mọi đối tượng, trợ giúp có hiệu quả cho những người yếu thế, dễ bị tổn thương, gặp rủi ro trong cuộc sống. Chú trọng cung cấp các dịch vụ công, bảo đảm những nhu cầu cơ bản, thiết yếu cho nhân dân về nhà ở, việc làm, đi lại, giáo dục, chăm sóc y tế. Nhà nước tăng đầu tư và xã hội hoá, huy động các nguồn lực phát triển nhà ở xã hội cho người có thu nhập thấp, người nghèo, công nhân ở khu công nghiệp, sinh viên, người dân ở vùng khó khăn. Khuyến khích đầu tư phát triển để tạo nhiều việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động; đẩy mạnh hoạt động dạy nghề, giới thiệu, môi giới việc làm, phát triển thị trường lao động, xuất khẩu lao động để tạo điều kiện mọi người có việc làm, thu nhập, cải thiện đời sống; hoàn thiện chính sách, khắc phục những bất hợp lý về tiền lương, tiền công đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động.

 

Hoàn thiện chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình. Coi trọng chăm sóc sức khoẻ nhân dân, thực hiện xã hội hoá, huy động các nguồn lực xây dựng, phát triển bệnh viện, phòng khám chữa bệnh với trang thiết bị công nghệ ngày càng cao, hiện đại; phát triển hệ thống y tế dự phòng, phát triển y học dân tộc, tập trung nguồn lực phát triển y tế ở cơ sở, ở các địa phương miền núi, vùng sâu, vùng xa, bảo đảm cơ hội tiếp cận bình đẳng về chăm sóc sức khoẻ cho người dân. Thực hiện chính sách bảo hiểm y tế cho toàn dân. Phát triển thể dục thể thao để góp phần nâng cao sức khoẻ toàn dân. Thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, phát triển phẩm chất, năng lực người học. Tăng đầu tư Nhà nước, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá, huy động các nguồn lực xã hội để phát triển giáo dục đào tạo. Quan tâm phát triển giáo dục đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, bảo đảm công bằng xã hội trong giáo dục. Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực cho sự phát triển đất nước. Đổi mới công tác quản lý giáo dục đào tạo, tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục đào tạo. Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội, giảm thiểu tai nạn giao thông, bảo đảm an toàn xã hội, an ninh con người.

 

Cùng với đổi mới trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định và phát triển đất nước. Trong đó, điểm nổi bật là những đổi mới nhận thức và giải pháp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân cấp, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Phương thức quản lý của Nhà nước được đổi mới, Nhà nước quản lý bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch (gọi chung là luật pháp). Nhà nước ban hành pháp luật và tổ chức, quản lý đất nước bằng pháp luật. Pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý đất nước, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực Nhà nước. Trong những năm đổi mới vừa qua, việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền đã được tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp, cả về tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động. Tổ chức bộ máy Nhà nước được sắp xếp lại, điều chỉnh, giảm đầu mối, thực hiện tinh giản biên chế; cải cách thủ tục hành chính, cải cách tư pháp được chú trọng; việc xây dựng, hoàn thiện luật pháp và tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát việc thực hiện được tăng cường để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, đáp ứng yêu cầu ổn định và phát triển đất nước trong bối cảnh mới.

 

Thành tựu nổi bật nữa là những đổi mới trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Công tác tư tưởng, nghiên cứu và giáo dục lý luận chính trị, công tác xây dựng Đảng về đạo đức được chú trọng, có nhiều đổi mới. Hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được hình thành, phát triển ngày càng hoàn thiện. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch, “diễn biến hoà bình”, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, “lợi ích nhóm”, những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ cán bộ, đảng viên được đẩy mạnh. Nhiều đổi mới về tổ chức bộ máy, công tác cán bộ của Đảng đã được thực hiện như: Đổi mới tổ chức, hoạt động của các Ban tham mưu của Đảng, các Đảng đoàn, Ban Cán sự Đảng trong các cơ quan Nhà nước; hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, xác định rõ quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách, quyền hạn đi đôi với trách nhiệm, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu; xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vị phạm kỷ luật, kỷ cương; đổi mới các quy định, quy chế về đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ, bầu cử trong Đảng, tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ theo hướng dân chủ, chặt chẽ hơn; thực hiện lấy phiếu tín nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý, v.v. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng được tăng cường, bố trí lại cán bộ mất uy tín, bị kỷ luật. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng được đẩy mạnh, Ban Chỉ đạo đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được thành lập, do Bí thư cấp uỷ làm trưởng ban, nhiều vụ tham nhũng nghiêm trọng đã được xử lý nghiêm minh. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội có những đổi mới quan trọng: Đảng lãnh đạo bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng chính sách và chủ trương lớn, bằng công tác tuyên truyền thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú để bầu vào các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị, lãnh đạo thông qua tổ chức Đảng và đảng viên trong các tổ chức này.

 

Nhờ thực hiện ngày càng toàn diện, đồng bộ những đổi mới trên các lĩnh vực, ngày càng đi vào chiều sâu, trong gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, phát triển mạnh mẽ, đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những năm 70 - 80 của thế kỷ trước, sau ngày đất nước mới được thống nhất, thoát khỏi tình trạng bị bao vây, cấm vận, khép kín để có quan hệ quốc tế rộng rãi, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, uy tín quốc tế ngày càng tăng lên; từ nước nghèo, kém phát triển trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Những thành tựu phát triển đất nước là to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo ra những tiền đề để đất nước tiếp tục phát triển trong những năm tới. Tuy nhiên, ổn định kinh tế - xã hội chưa vững chắc, còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định, thành tựu phát triển đạt được còn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước. Trong những năm gần đây, lạm phát vẫn còn diễn ra (2011 - 2012), nợ công tăng cao, tăng trưởng kinh tế không ổn định, nhiều lần suy giảm (1998 - 1999, 2008 - 2009, 2012 - 2013, 2020 - 2021), công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm, năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Mục tiêu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại mà nhiều kỳ Đại hội Đảng đề ra, không thực hiện được. Tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa được ngăn chặn, đẩy lùi; tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp, gây bức xúc xã hội, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, là một trong những nguy cơ đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ ta.

 

PGS. TS. Nguyễn Văn Thạo

PGS. TS. Bùi Thị Lý

 


[1] Đảng CS VN. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, H, NXB Chính trị quốc gia, 2011, trang 72-73

[2] Đảng CS VN. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, H, Văn phòng Trung ương, 2016, trang 80

[3] Đảng CS VN. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, H, Văn phòng Trung ương, 2016, trang 80

[4] Đảng CS VN. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, H, NXB Chính trị quốc gia, 2021, trang 119

[5] Đảng CS VN. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, H, NXB Chính trị quốc gia, 2021, trang 119

[6] Đảng CS VN. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, H, NXB Chính trị quốc gia, 2021, trang 119

[7] Đảng CS VN. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, H, NXB Chính trị quốc gia, 2021, trang 119

[8] Đó là nhận thức, quan điểm đồng nhất chủ nghĩa xã hội với nhà nước hoá, công hữu hoá, tập thể hoá, phủ nhận kinh tế tư nhân, kinh tế thị trường, dẫn đến những sai lầm trong cải tạo các thành phần kinh tế, trong cơ chế quản lý, trong cơ cấu đầu tư, như đánh giá trong Báo cáo chính trị Đại hội VI của Đảng, Đại hội mở ra đường lối đổi mới.

Tag:

File đính kèm