(TUAG)- Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của Đảng
và dân tộc Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa kiệt xuất,
là tấm gương đạo đức hết mực trong sáng, thống nhất giữa lý thuyết đạo đức và
thực hành đạo đức, giữa đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
quan niệm đạo đức cách mạng là gốc của cán bộ, đảng viên. Người khẳng định đạo
đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển của con người, cũng giống như gốc của
cây, ngọn nguồn của sông suối. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây
héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi
mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
Với Chủ tịch Hồ Chí
Minh, đạo đức là nền tảng của người cách mạng. Người cách mạng phải có đạo đức
cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất
vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức
tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người
cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức tạo ra sức mạnh, là
nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc, quy định phẩm chất,
uy tín của mỗi con người. Người cho rằng, mọi việc thành công hay thất
bại, chủ yếu là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không và
“Tuy năng lực và công việc của mỗi người khác nhau, người làm việc to,
người làm việc nhỏ; nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng”.
Đạo đức cách mạng
còn giúp người cách mạng đứng vững trong mọi hoàn cảnh, dù khó khăn hay thuận lợi. Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu rõ: có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại cũng
không sợ sệt, rụt rè, lùi bước..., khi gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững
tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, lo trước thiên hạ, vui sau
thiên hạ, không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu,
không kiêu ngạo, không hủ hóa.
Trong điều kiện Đảng
cầm quyền, mỗi cán bộ, đảng viên là những người đi tiên phong trong các phong trào, các hoạt động
của đời sống xã hội, có vai trò và ảnh hưởng đến việc định hướng dư luận
xã hội. Do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh trăn trở với nguy cơ các cán bộ, đảng
viên, nhất là những người nắm giữ các cương vị trong hệ thống chính trị xa rời
cuộc sống, xa rời quần chúng, rơi vào căn bệnh chủ nghĩa cá nhân - kẻ địch nguy
hiểm của đạo đức, căn bệnh gốc gây nên tình trạng thoái hóa
biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Vì vậy, Người yêu cầu Đảng
phải “là đạo đức, là văn minh”, phải
tiêu biểu cho lương tâm, phẩm giá và trí tuệ của dân tộc.Trong Di chúc Người căn dặn: “Mỗi đảng
viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công
vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Từ những quan niệm về
vị trí, vai trò của đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú trọng chỉ ra
những chuẩn mực đạo đức cách mạng cần phải có của người cán bộ, đảng viên. Ngay
từ khi tổ chức đào tạo những “hạt giống đỏ” của cách mạng Việt Nam, Người đã đặt
lên trước hết bài học về tư cách của một người cách mạng, với 23 điều chuẩn mực, chủ
yếu là về lĩnh vực đạo đức. Sau khi sáng lập Đảng, Người đã không ngừng
chú trọng rèn luyện, xây dựng Đảng để trở thành một tổ chức thực
sự trong sạch, vững mạnh, được tạo lập từ những con người trong sạch,
vững mạnh. Tùy theo đối tượng cụ thể đang công tác trong lực lượng vũ
trang nhân dân, hay trí thức, công nhân, nông dân, phụ nữ, thanh niên,
thiếu niên,... Người nêu lên những yêu cầu cụ thể về đạo đức cách mạng. Chẳng
hạn đối với lực lượng Công an nhân dân thì Người nêu 6 điều dạy; đối
với các cháu thiếu nhi, Người nêu 5 điều dạy,... Trong đó, chuẩn mực
đạo đức chung của người cán bộ, đảng viên là: Trung với nước, Hiếu với
dân; Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; yêu thương con người; có
tinh thần quốc tế trong sáng.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã làm cuộc cách mạng về đạo đức khi sử dụng những khái niệm trong Nho
giáo truyền thống nhưng với những nội hàm mới. Đó trước hết là phẩm chất trung
với nước, hiếu với dân. Người cho rằng, người cách mạng phải đặt quyền lợi của
Tổ quốc lên trên hết và trước hết. Trung với nước là tuyệt đối trung thành với
sự nghiệp dựng nước và giữ nước, trung thành với con đường đi lên của đất nước;
là suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng. Trung với nước ở Chủ tịch Hồ Chí
Minh trở thành lẽ sống tự nhiên, một nhu cầu luôn luôn thường trực và phải được
đo bằng kết quả cụ thể, bằng hiệu suất công việc
thực tế. Hiếu với dân là nội dung rất cơ bản trong quan niệm của Người, trong
đó có hiếu với cha mẹ mình và rộng ra là tình họ hàng, rộng nữa là tình người đối
với cộng đồng, với dân tộc. Hiếu với dân thể hiện ở chỗ gần dân, kính trọng
dân, học tập dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc, thương dân, tin dân, hết
lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Cùng với phẩm chất trung với nước, hiếu với
dân, Hồ Chí Minh cũng hết sức coi trọng phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng
của “đời sống mới”, nền tảng của
thi đua ái quốc; cần, kiệm, liêm, chính không chỉ là chuẩn mực đạo đức cần phải có của con người, mà còn là
tiêu chí xác định “chất người” của mỗi người. Hơn nữa, cần, kiệm, liêm, chính là thước đo
trình độ văn minh, tiến bộ của một dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
còn quan tâm, chú trọng đến các chuẩn mực đạo đức khác là tình thương yêu con
người và tinh thần quốc tế trong sáng trên lập trường của giai cấp công nhân. Ở Người, tình yêu thương
con người được xây dựng trên lập trường của giai cấp công nhân.
Đó không dừng lại ở lòng trắc ẩn, mà còn được nâng lên ở tầm cao, gắn
tình yêu thương với khát vọng giải phóng con người không phân biệt màu da,
chủng tộc, giai cấp, tôn giáo khỏi những áp bức, bất cộng. Do đó, tình
yêu thương con người ở Chủ tịch Hồ Chí Minh vượt ra khỏi phạm vi một
quốc gia, dân tộc, đến với nhân loại tiến bộ và thu hút sự ngưỡng mộ, cảm phục
của nhân loại tiến bộ.
Cùng với việc xác định
vị trí, vai trò của đạo đức, các chuẩn mực đạo đức cơ bản của cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ ra cho chúng ta những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo quá trình tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức của mỗi con người. Bản thân Người đã nêu gương
thực hành những nguyên tắc đó trong quá trình tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức bản thân và quá trình Người chỉ đạo xây dựng nền văn hóa mới, nền
đạo đức mới của Việt Nam. Đó là các nguyên tắc nói đi đôi với làm, nêu gương đạo đức; tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng nhắc nhở hết sức sâu sắc: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu
tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng
mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Đạo đức không phải là cái
“nhất thành bất biến”, không phải là điểm đến, chỉ cần phấn đấu vươn tới
một lần là xong xuôi, mà là quá trình tu dưỡng, rèn luyện suốt đời. Một
nền đạo đức mới chỉ có thể xây dựng trên cơ sở sự tự giác tu dưỡng đạo
đức của mỗi người.
Sự Thật