Sign In

Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh (26-30/4/1975) - Đỉnh cao thắng lợi chói lọi nhất trong lịch sử chiến tranh cách mạng Việt Nam

18:26 25/04/2024
Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu diễn ra từ ngày 26/4/1975 thắng lợi là đỉnh cao của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định mang tên Bác Hồ vĩ đại “chiến dịch Hồ Chí Minh” được Bộ Chính trị quyết định là đỉnh cao thắng lợi của chiến tranh cách mạng Việt Nam, đi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta những trang vàng chói lọi nhất.

Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu diễn ra từ ngày 26/4/1975 thắng lợi là đỉnh cao của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định mang tên Bác Hồ vĩ đại “chiến dịch Hồ Chí Minh” được Bộ Chính trị quyết định là đỉnh cao thắng lợi của chiến tranh cách mạng Việt Nam, đi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta những trang vàng chói lọi nhất.

Từ ngày 18/12/1974-08/01/1975, Bộ Chính trị do đồng chí Lê Duẩn - Tổng Bí thư (đứng giữa) chủ trì họp quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 (Ảnh tư liệu).

Để đi đến quyết định cuối cùng mở chiến dịch Hồ Chí Minh là cả một quá trình thay đổi chỉ đạo chiến lược đúng đắn với quyết tâm cao nhất của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương. Sau Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết ngày 27/01/1973, nhận thấy tương quan so sánh lực lượng đã hoàn toàn nghiêng về phía ta, tháng 10/1974 và ngày 07/01/1975, Bộ Chính trị họp “Bàn về tình hình và nhiệm vụ cuộc chống Mỹ, cứu nước” hạ quyết tâm lịch sử: “Giải phóng miền Nam”. Bộ Chính trị nhận thấy quân Mỹ khó có khả năng quay lại tham chiến tại miền Nam và nhất trí thông qua kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, nhưng nhấn mạnh “nếu thời cơ đến sớm sẽ giải phóng miền Nam trong năm 1975, đồng thời chọn chiến trường Tây Nguyên làm hướng tiến công chủ yếu và “cố gắng cao nhất để thắng gọn trong năm 1975”[1]. Thực hiện chủ trương đề ra, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, bắt đầu từ ngày 04/3/1975 với chiến thắng mở đầu Buôn Ma Thuột (10/3/1975); tiếp đến là các chiến thắng Huế (26/3/1975), Đà Nẵng (29/3/1975),… đã làm thay đổi hẳn lực lượng so sánh giữa ta và địch. Quân địch không những không có khả năng lấy lại các vùng đã mất mà còn đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn.

Ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị họp nhận định: “Về chiến lược, về lực lượng quân sự, chính trị, ta đã có sức mạnh áp đảo, địch đang đứng trước nguy cơ sụp đổ và diệt vong. Mỹ tỏ ra hoàn toàn bất lực, dù có tăng viện cũng không thể cứu vãn được tình thế của ngụy. Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt, mà thời cơ để mở tổng tiến công và nổi dậy tại Sài Gòn - Gia Định đã chín muồi. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu”[2]. Trên cơ sở đánh giá đó, Bộ Chính trị quyết định: “Chúng ta phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng 4 năm nay, không để chậm. Phải hành động “thần tốc, táo bạo, bất ngờ”. Phải tiến công những lúc địch hoang mang, suy sụp. Tập trung lực lượng lớn hơn nữa vào những mục tiêu chủ yếu trên từng hướng, trong từng lúc. Phát huy sức mạnh của ba đòn chiến lược, kết hợp tiến công và nổi dậy, từ ngoài đánh vào, từ trong đánh ra”[3].

Đại tướng Võ Nguyên Giáp (đứng bên trái) trình bày kế hoạch trong cuộc họp Bộ Chính trị, hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975 (Ảnh tư liệu).

Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 07/4/1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng Tư lệnh, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra lệnh cho các đơn vị đang đổ vào chiến trường mệnh lệnh: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng” [4]. Ban Cơ yếu lập tức truyền đi khắp các mặt trận trên toàn miền Nam như “Lời hịch tướng sĩ”. Đây là mệnh lệnh truyền đạt quyết tâm cao nhất của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương tới các cấp lãnh đạo và chỉ huy chiến trường, tới các đảng viên, chiến sĩ để chủ động sáng tạo, thừa thắng, xốc tới, hướng mọi hành động theo phương châm thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng các đồng chí trong Quân ủy Trung ương duyệt phương án tác chiến Chiến dịch Hồ Chí Minh tại Hà Nội tháng 4/1975 (Ảnh Bảo tàng Lịch sử Việt Nam)

Quyết tâm chiến lược, tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo của Đảng, của Quân ủy Trung ương được quán triệt đến toàn quân, toàn dân. Cả nước sôi nổi không khí ra trận. Hàng nghìn xe vận tải chở quân, chở hàng theo Đường 1, đường Đông và Tây Trường Sơn, ngày đêm hối hả lao về phía Nam. Các nhà ga, bến cảng nhộn nhịp hoạt động, đưa gạo, đưa đạn lên các đoàn tàu hỏa, các tàu biển, chuyển xuống các đoàn canô kéo theo sà lan để theo các tuyến đường sắt, đường sông, đường vận tải ven biển tiến về Sài Gòn. Hơn lúc nào hết, “thời gian lúc này là lực lượng, là sức mạnh. Yêu cầu của mặt trận hết sức gấp, từng ngày, từng giờ. Cần phải hành quân hết sức nhanh, chi viện hết sức gấp”[5]. Quân đoàn 1 từ hậu phương lớn miền Bắc; Quân đoàn 2 vừa tham gia chiến dịch giải phóng Huế, Đà Nẵng và các tỉnh miền Trung Trung Bộ; Quân đoàn 3 vừa đánh trận mở đầu Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên và ba tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa; Quân đoàn 4 vừa lập chiến công trên Đường 14 - Phước Long lịch sử; Đoàn 232 mới thành lập từ các sư đoàn đã dày dạn chiến đấu ở hướng Tây - Nam Sài Gòn. Các quân đoàn binh chủng hợp thành cùng nhiều đơn vị công binh, pháo binh, phòng không, xe tăng, đặc công, ào ạt tiến quân về chiến trường trọng điểm. Các đơn vị vừa đi, vừa đánh địch, vừa mở đường, bắc cầu. Sức mạnh tổng hợp được nhân lên trong trận đánh chiếm sào huyệt cuối cùng của địch.

Ngày 06/4/1975, thực hiện quyết định của Bộ Chính trị, Bộ tư lệnh chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định được thành lập gồm các đồng chí: Văn Tiến Dũng, Tư lệnh; Phạm Hùng, Chính ủy kiêm Bí thư Đảng ủy; Trần Văn Trà, Phó tư lệnh Thứ nhất kiêm Tham mưu trưởng; Lê Đức Anh, Phó tư lệnh (sau đó bổ sung đồng chí Lê Trọng Tấn, Phó tư lệnh, đồng chí Lê Quang Hòa, Phó chính ủy). Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thông qua quyết tâm và kế hoạch giải phóng Sài Gòn-Gia Định. Hồi 17 giờ 50 phút, ngày 14/4/1975, bức điện số 37/TK của đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi đến mặt trận Sài Gòn "đồng ý chiến dịch Sài Gòn lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh"[6]. Tin chiến dịch được mang tên Bác Hồ đến với toàn dân, toàn quân đã tạo nên sức mạnh mới. Được tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh là niềm tự hào, vinh dự to lớn của mỗi người Việt Nam, thế hệ làm nên chiến thắng mùa Xuân 1975 lịch sử. Kế hoạch xác định cuộc tiến công sẽ diễn ra đồng thời trên 5 hướng: Tây - Bắc, Đông - Bắc, Đông, Đông - Nam, Tây và Tây - Nam; thực hiện đánh nhanh, đánh dứt điểm, tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn quân địch, bảo vệ dân, bảo vệ các cơ sở kinh tế, văn hóa trong thành phố. Tiếp đó, Bộ Chính trị chỉ rõ: “Chiến dịch Hồ Chí Minh rất to lớn về mục đích, về quy mô, cũng như về lực lượng… Sài Gòn là sào huyệt cuối cùng của Mỹ, ngụy. Bọn phản động đầu sỏ tập trung ở đây, nên cũng cần có dự kiến trong tình hình nào đó cuộc chiến đấu có thể kéo dài một thời gian nhất định… Địch luôn luôn có thể có những cố gắng mới. Nhưng ta có đầy đủ điều kiện và khả năng để giành toàn thắng trong thời gian ngắn với nhịp độ nhanh”[7].

Tháng 4/1975, Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh tại căn cứ Tà Thiết - Lộc Ninh (Ảnh tư liệu)

Đến ngày 20/4/1975, quân dân ta đã bao vây thành phố Sài Gòn - Gia Định trên tất cả các hướng. Năm quân đoàn binh chủng hợp thành, lực lượng vũ trang Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và thành phố Sài Gòn - Gia Định đã chiếm lĩnh vị trí xuất phát tiến công cách nội đô trên dưới 50km và bí mật đưa một bộ phận lực lượng áp sát các mục tiêu. Lực lượng hậu cần phục vụ chiến dịch lên tới 180.000 người. Nắm vững thời cơ chiến lược, với tư tưởng chỉ đạo hành động “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, quân dân ta đã hoàn thành việc tập kết lực lượng và phương tiện chiến tranh trong một thời gian ngắn, tạo nên thế trận mới với sức mạnh áp đảo, bảo đảm thắng lợi chắc chắn nhanh chóng và trọn vẹn cho chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định.

Ngày 02/4/1975, xe tăng của Quân đoàn 1 vượt sông, chuẩn bị tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh (Ảnh tư liệu)

Ngày 21/4/1975, quân địch ở Xuân Lộc tháo chạy. Trong khi đó, địch bị tổn thất nặng nề về lực lượng và phương tiện, tinh thần hoang mang. Mỹ lập cầu hàng không viện trợ khẩn cấp cho chính quyền, quân đội Sài Gòn nhằm cứu vãn sự sụp đổ hoàn toàn, hi vọng tìm kiếm một giải pháp qua đàm phán. Ngày 22/4/1975, Bộ Chính trị họp bàn, phát lệnh: “Thời cơ để mở cuộc tổng tiến công về quân sự và chính trị vào Sài Gòn đã chín muồi. Ta cần tranh thủ từng ngày để kịp thời phát động tiến công. Hành động trong lúc này là bảo đảm chắc chắn nhất để giành thắng lợi hoàn toàn. Nếu để chậm sẽ không có lợi cả về quân sự và chính trị".

Sau thời gian chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, 17 giờ ngày 26/4/1975, chiến dịch Hồ Chí Minh chính thức bắt đầu, quân ta đồng loạt tổng công kích thành phố Sài Gòn - Gia Định. Bộ đội Pháo binh “chân đồng vai sắt, đánh giỏi, bắn trúng” đã phát huy sức mạnh của các loại pháo tầm xa, bắn tập trung mãnh liệt vào sân bay Tân Sơn Nhất, Biên Hòa, kiềm chế và tiêu diệt các trận địa pháo binh địch. Bộ đội Đặc công “luồn sâu đánh hiểm” phối hợp với các lực lượng biệt động thành phố đánh chiếm tất cả các cầu lớn trên các con đường tiến vào Sài Gòn. Tất cả các cánh quân của ta từ các hướng Tây - Bắc, Đông - Bắc, Đông, Đông - Nam, Tây và Tây - Nam, các binh đoàn thọc sâu có xe tăng dẫn đầu, đập tan các khu vực phòng thủ vòng ngoài của địch. Trải qua gần hai tháng Tổng tiến công và nổi dậy, quân dân Việt Nam đã giành thắng lợi trọn vẹn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc chặng đường 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng thời kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc kể từ Cách mạng tháng Tám năm 1945. Chiến công hiển hách đã làm kinh ngạc cả thế giới.

Nhìn lại thắng lợi vang dội của 49 năm về trước, chúng ta càng nhận thức rõ ràng hơn về nghệ thuật chỉ đạo chiến lược kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tài tình, sáng tạo của tập thể Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam (tên gọi khác của Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1951-1976), vượt qua mọi hoạch định, toan tính chiến tranh xâm lược của địch, tạo nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975 với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Đây là thắng lợi chói lọi nhất trong lịch sử chiến tranh cách mạng Việt Nam. Với chiến thắng này, đất nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập tự do, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Quá trình chỉ đạo chiến lược của Bộ Chính trị trong giai đoạn kết thúc chiến tranh ấy đã để lại những bài học lịch sử lớn, quan trọng đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay như: kiên định mục tiêu độc lập dân và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh mới; bám sát thực tiễn, nhận diện nắm bắt đúng thời cơ, phát huy sức mạnh nội lực, kết hợp với tranh thủ những điều kiện khách quan thuận lợi để vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi mục tiêu cơ bản đề ra; tăng cường giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ trong mọi chủ trương, đường lối, chính sách vì lợi ích quốc gia, dân tộc; phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng tiềm lực, thế trận quốc phòng an ninh vững chắc, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt.Thế hệ trẻ ngày nay sinh ra và lớn lên trong giai đoạn đất nước hòa bình và phát triển, nhưng qua những bài học lịch sử về những năm tháng khốc liệt mà hào hùng của dân tộc, đã nhắc nhớ thế hệ trẻ luôn nhớ về cội nguồn, tri ân và học tập các thế hệ cha anh đi trước.

-----

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 36, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.9.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 36, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.95.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 36, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.96.

[4] Theo Trung tướng Phạm Hồng Cư kể: “Trong cuộc đời quân ngũ, tôi đã có những lần nhận lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp mà khi đọc lên, mệnh lệnh đó âm vang trong tâm hồn như một lời hịch của non sông đất nước. Đặc biệt phải kể tới là ngày 07/4/1975, trên đường hành quân tiến về Sài Gòn, tôi nhận được bức điện của Đại tướng Tổng Tư lệnh. Mệnh lệnh nổi tiếng ấy như một lời hịch của Đại tướng Võ nguyên Giáp trong chỉ đạo Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử”. Bài viết đăng trên Báo Quân đội nhân dân ngày 14/9/2010.

[5] Điện ngày 6/4/1975 của Quân ủy Trung ương gửi Thường vụ Đảng ủy Bộ Tư lệnh Đoàn 559, lưu trữ tại Bộ Quốc phòng.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 36, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.109.

[7] Điện ngày 15/4/1975 của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương gửi Bộ Chỉ huy và Đảng ủy Mặt trận Sài Gòn, lưu trữ tại Bộ Quốc phòng.

Lê Sơn

Tag:

File đính kèm