Sign In

Chiến Thắng Đường 5 thời cơ thuận lợi để quân và dân Phú Yên giải phóng hoàn toàn tỉnh Phú Yên ngày 01/4/1975

15:42 31/03/2025
 

Chọn cỡ chữ A a  

 

   

Ngày 01/4/1975-01/4/2025, tròn 50 năm quân và dân Phú Yên phối hợp với Sư đoàn 320 bộ đội chủ lực, tấn công tiêu diệt, làm tan rã, bắt sống và thu toàn bộ vũ khí trang bị của cánh quân địch rút lui từ Tây Nguyên theo đường 7, bắt cầu phao vượt Sông Ba, sang đường 5 về Đông Tác để phòng giữ các tỉnh ven biển miền Trung. Chiến thắng này là thời cơ thuận lợi, giúp quân và dân Phú Yên phối hợp với bộ đội chủ lực, tổng tấn công và giải phóng hoàn toàn tỉnh Phú Yên trong ngày 01/4/1975. Đây là cuộc tiến công nổi dậy nhanh nhất, trọn vẹn nhất, ít thương vong nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân và dân Phú Yên.

Cố Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên Nguyễn Duy Luân cùng Đại tá Ông Văn Bưu, Đại tá Trần Văn Mười (nguyên CHT Bộ CHQS tỉnh PY) trong một lần thăm lại Đường 5

Sau khi thất bại hoàn toàn tại Buôn Ma Thuột (ngày 10/3/1975), Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn II ngụy quyền Sài Gòn đã vội vã điều động Trung đoàn 44 và một bộ phận của Trung đoàn 45, thuộc Sư đoàn 23, được không quân yểm trợ đắc lực đổ bộ xuống Phước An (ngày 12/3/1975) để phản kích hòng chiếm lại thị xã Buôn Ma Thuột đã mất. Bị quân chủ lực của ta tấn công tiêu diệt, chiến trường Tây Nguyên bị cô lập, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã triệu tập cuộc họp ở bán đảo Cam Ranh, Khánh Hoà, bàn kế hoạch rút quân khỏi Tây Nguyên để bảo toàn lực lượng, phòng giữ các tỉnh duyên hải miền Trung, chờ thời cơ phản kích, chiếm lại Tây Nguyên.

Theo tài liệu của địch để lại và lời tường trình của Chuẩn tướng Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt động quân, sáng ngày 14/3/1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Cố vấn an ninh của Tổng thống Đặng Văn Quang từ Sài Gòn bay ra quân cảng Cam Ranh để chủ trì cuộc họp.

Tại Tây Nguyên, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn II, Quân khu II đang tìm cách củng cố lực lượng, sau thất bại thảm hại tại thị xã Buôn Ma Thuột và trận phản kích tại Phước An, thì nhận được lệnh về ngay quân cảng Cam Ranh để gặp Tổng thống nhận lệnh. Cùng đi với tướng Phú có Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Sư đoàn trưởng Sư đoàn Không quân số 6.

Tại cuộc họp, Thiếu tướng Phạm Văn Phú báo cáo tình hình chiến sự đang diễn ra tại Tây Nguyên. Ông ta nhấn mạnh, 4 sư đoàn quân giải phóng đang phong toả khắp Pleicu, Buôn Ma Thuột, mọi đường ra biển đều bị cắt. Thiếu tướng Phú khẳng định “... nếu rút khỏi Tây Nguyên năm nay, thì cuộc tấn công khác của cộng sản có thể vào năm tới, sẽ mất duyên hải và mất nước...”. Thiếu tướng Phú đề nghị: “... yểm trợ không quân tối đa, được tiếp tế đầy đủ, được bổ sung quân số để bù đắp những thiệt hại nặng nề vừa qua...”

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nghe Thiếu tướng Phú báo cáo và đề nghị, ông lắc đầu và nói: “... không có gì hết, không có người, không có thiết bị để cung cấp cho anh, quân đội đang bị phân tán một cách nguy hiểm ra khắp đất nước, cho nên phải rút khỏi các tỉnh Tây Nguyên để bảo tồn lực lượng, đưa quân về giữ đồng bằng ven biển, tiếp tế thuận lợi hơn, từ đó phân công lấy lại Buôn Ma Thuột và Tây Nguyên...”

Nghe Tổng thống phát lệnh không có tướng lĩnh nào có ý kiến, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm nói: “... chỉ còn đường số 7, một con đường cũ kỹ đi về phía đông qua tỉnh Phú Bổn từ lâu đã bỏ không, tuy không được tốt, nhưng công binh có thể khắc phục, để nhanh chóng rút theo đường này, tạo được yếu tố bất ngờ, vừa không bị quân chủ lực đối phương ngăn chặn. Đến cuối đường 7, bắc cầu phao vượt sông Ba, sang đường 5, đưa quân và phương tiện theo trục đường này về tập kết tại sân bay Đông Tác, Tuy Hoà, Phú Yên...”. Ông giao cho tướng Phú lập kế hoạch hành quân càng nhanh càng tốt, giữ bí mật kế hoạch và thời gian, không phổ biến cho địa phương.

Thiếu tướng Phạm Văn Phú giao cho Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phó Tư lệnh Quân đoàn II, lên kế hoạch hành quân, Phạm Duy Tất, tư lệnh biệt động quân chỉ huy hành quân, Đại tá Lê Khắc Lý bảo đảm hành quân, điều động chỉ huy lực lượng và phương tiện bắc cầu phao vượt sông Ba. Tướng Phú bay về Nha Trang, điều phương tiện bắt cầu phao ra tập kết ở sân bay Đông Tác, lệnh cho Tỉnh trưởng Phú Yên là Vũ Quốc Gia điều động Liên đoàn Bảo An 924 sang hướng Tuy Hoà 1 rải quân chốt giữ trục đường 5 từ quận Hiếu Xương lên Hòn Kén, Sơn Thành, điều Tiểu đoàn Biệt động quân từ Khánh Hoà ra chốt giữ từ Đèo Cả đến Hoà Vinh, Tuy Hoà 1.

Thực hiện kế hoạch trên, ngày 16/3/1975, quân địch bắt đầu rút khỏi Kon Tum, ngày 17/3/1975 rút quân chủ lực ở Pleicu. Khi quân chủ lực rút quân thì lực lượng địa phương và gia đình vợ con đi theo, làm cho cuộc rút lui được chuẩn bị, có tính toán, có tổ chức đã trở thành cuộc tháo chạy hoảng loạn. Chiều ngày 17/3/1975, bộ phận đi đầu đến Củng Sơn tập kết ở ngã ba Thạnh Hội để chuẩn bị bắc cầu phao vượt sông Ba.

8h ngày 17/3/1975, Ban chỉ huy tiền phương tỉnh Phú Yên nhận được lệnh của Tư lệnh Quân khu 5: “... địch ở Tây Nguyên rút quân theo đường 7 về thị xã Tuy Hoà Phú Yên; Tỉnh đội Phú Yên điều động toàn bộ lực lượng của tỉnh, chặn đánh địch trên trục đường 7, không cho chúng chạy thoát, điều động Tiểu đoàn bộ binh 96 cơ động lên Củng Sơn hiệp đồng cùng với Sư đoàn 320 chủ lực đánh địch từ Tây nguyên xuống...”

Về phía ta, Ban chỉ huy Tiền phương đang chỉ huy nổ súng tấn công ở hướng Tuy Hoà II, Tiểu đoàn 96 đánh địch ở Hoà Định, Hoà Thắng, Đại đội 202 tập kích địch ở cứ điểm Núi Tranh xã Hoà Quang. Trên hướng Tuy Hoà I đang tổ chức cho Tiểu đoàn bộ binh 13, Tiểu đoàn bộ binh 9, Tiểu đoàn trợ chiến 189, Đại đội đặc công 25, Đại đội 201, Đại đội 7  tổ chức hiệp đồng chuẩn bị chiến đấu các mục tiêu đã được chuẩn bị như Cầu Cháy, Hòn Sặc, Hòn Kén. Trinh sát của tiền phương đã phát hiện địch tăng cường chốt giữ trên trục đường 5, vận chuyển phương tiện bằng máy bay tập kết ở Thạnh Hội. Cơ quan tham mưu của ta dự báo, địch có thể vượt sông Ba sang đường 5. Ban chỉ huy tiền phương quyết tâm trước tiên phải tấn công các chốt trên trục đường 5 do lực lượng bảo an chốt giữ, thực hiện đúng kế hoạch được chuẩn bị, tạo địa bàn có hậu phương, bảo đảm tấn công địch đúng kế hoạch và các mục tiêu đã được chuẩn bị. Đây là quyết tâm táo bạo, linh hoạt, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm của người chỉ huy trước cấp trên.

Theo kế hoạch, đêm 18 rạng ngày 19/3/1975, Ban chỉ huy tiền phương trực tiếp chỉ huy Tiểu đoàn bộ binh 13 cùng một bộ phận hỏa lực của Tiểu đoàn trợ chiến 189 tấn công tiêu diệt cứ điểm Cầu Cháy do Tiểu đoàn bảo an địch chốt giữ. Sau đó, quân ta trụ lại đánh địch phản kích. Đại đội đặc công 25 tập kích cứ điểm Hòn Sặc. Địch tăng cường đông, quân ta không làm chủ được trận địa, Đại đội đặc công 201 tập kích cứ điểm Hòn Kén. Địch tăng cường chốt giữ, nên ta không thực hiện được ý định. Ban chỉ huy tiền phương lệnh cho quân ta dùng hoả lực tập kích vào Hòn Kén, làm thương vong một số, địch hoảng sợ. Tiểu đoàn bộ binh 9 tập kích quân địch ở Mỹ Thạnh Đông, Mỹ Thạnh Trung, tiêu diệt 1 bộ phận địch, rồi trụ lại đánh địch phản kích. Sáng ngày 19/3/1975, Tiểu đoàn bộ binh 9 dùng hoả lực và 1 đại đội bộ binh tập trung đánh chiếm lại Hòn Sặc, giải quyết thương binh tử sĩ, đưa về phía sau, tổ chức một bộ phận trụ lại Hòn Sặc sẵn sàng đánh địch từ Tây Nguyên xuống.

Đại tá Trần Văn Mười cùng các cựu binh Sư đoàn 320 thăm lại chiến trường xưa

Ngày 19/3/1975, quân địch phản kích quyết liệt ở Cầu Cháy, trục đường 5, khu vực ga Gò Mầm, nhưng đều bị lực lượng ta đánh bật, tiêu diệt 1 bộ phận địch, bắn rơi một máy bay, giữ vững trận địa.

Để chuẩn bị đánh quân địch từ Tây Nguyên xuống, Ban chỉ huy tiền phương lệnh quân ta bố trí lại lực lượng, tập trung sức đánh quân địch từ Tây Nguyên xuống, sử dụng Đại đội bộ binh huyện và Đại đội 7 đặc công, một đại đội thuộc Tiểu đoàn 13, đánh địch từ phía đông phản kích lên, tiêu diệt từng bộ phận, ngăn chặn và tạo điều kiện cho các đơn vị của tỉnh tập trung tiêu diệt quân địch từ Tây Nguyên xuống.

Từ ngày 19/3/1975 đến ngày 25/3/1975, địch phản kích quyết liệt từ hai hướng nhưng đều bị ta chặn đánh, giữ vững trận địa, chia cắt hai cánh quân, không cho chúng bắt liên lạc được với nhau. Cánh quân từ Tây Nguyên xuống thiếu lương thực, nước uống nhưng chúng rất ngoan cố phản kích liên tục đẻ tìm đường tháo chạy. Bộ đội ta ngoan cường bám trụ, quyết tâm tiêu diệt không cho địch chạy thoát. Ngày 24/3/1975, Trung đoàn 64 của Sư đoàn 320 truy kích địch theo trục đường 7 đến tây Củng Sơn, bắt liên lạc được với Tiểu đoàn 96 địa phương, tổ chức tấn công quân lỵ Củng Sơn, đánh chiếm Phú Đức, Tuy Bình. Địch phát hiện bộ đội chủ lực của ta truy kích nên ra lệnh thả bom, phá cầu phao bắc qua sông Ba, phá huỷ 1 số xe ở hai đầu cầu. Ngay sau đó, địch vội vã điều động máy bay, pháo binh, bắn phá quyết liệt trên trục đường 5 để yểm trợ cho bộ binh chúng tháo chạy. Các tiểu đoàn bộ binh của ta tấn công, chia cắt địch trên trục đường 5, bắt sống hàng nghìn tên, số còn lại ra đầu hàng, thu hàng trăm xe các loại; làm thất lại hoàn toàn cuộc rút quân chiến lược từ Tây Nguyên xuống của địch vào trưa 25/3/1975.

Ta tranh thủ thời cơ địch đang hoang mang, dao động, khẩn trương chuẩn bị chiến trường, nhanh chóng tổ chức khắc phục tháo gỡ bom mìn trên trục đường 7 (từ dốc Đá Đề đến Dinh Ông), tổ chức hiệp đồng phân công nhiệm vụ. Rạng sáng ngày 01/4/1975, quân ta đồng loạt nổ súng tấn công vào thị xã Tuy Hoà, phát triển đánh chiếm chi khu Tuy An, Sông Cầu. Đến 10 giờ 30 phút ngày 01/4/1975, quân ta hoàn toàn giải phóng tỉnh Phú Yên.

Chiến thắng đường 5 thể hiện tính chủ động, quyết đoán, táo bạo, linh hoạt, trách nhiệm cao của người chỉ huy; quân ta đã chuẩn bị chặt chẽ mọi tình huống, trong điều kiện bị động chuyển sang chủ động. Về tổ chức, quân ta nắm chắc quân địch, nên chuyển phương thức tác chiến phù hợp, kịp thời, đánh địch và giành thắng lợi trọn vẹn. Chiến thắng đường 5 là sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo đường lối chiến tranh Nhân dân, dựa vào sức mạnh của quần chúng, tạo ra cơ sở vật chất, thực hiện phương châm lấy ít đánh nhiều, lấy thô sơ chống lại phương tiện hiện đại. Chiến thắng đường 5 thể hiện vai trò của bộ đội địa phương, trong phối hợp chiến dịch, bảo đảm tác chiến trên 1 hướng có khả năng tiêu hao sinh lực địch, ngăn chặn địch để phối hợp với bộ đội chủ lực, thực hiện mục tiêu của chiến dịch. Chiến thắng đường 5 là một mốc son hào hùng của quân và dân Phú Yên trong chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân năm 1975, đập tan kế hoạch rút lui chiến lược của địch, tạo thuận lợi cho quân và dân Phú Yên, phối hợp với Sư đoàn 320 chủ lực, tấn công nổi dậy giải phóng Phú Yên ngày 01/4/1975, góp phần to lớn vào chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam vào ngày 30/4/1975, thống nhất đất nước.

TTH

(Một số trích dẫn theo lời kể của Đại tá Trần Văn Mười, nguyên CHT Bộ CHQS tỉnh Phú Yên)

Tag:

Bài viết tích hợp từ : www.phuyen.dcs.vn