|
Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng phát biểu tại sự kiện Chuyển đổi số ngành ngân hàng năm 2024. |
Chuyển đổi số toàn diện
Trong thời gian qua, Ngành Ngân hàng đã chủ động, nỗ lực thực hiện chuyển đổi số toàn diện trên các mặt, bao gồm chuyển đổi nhận thức, kiến tạo thể chế, xây dựng hạ tầng công nghệ, phát triển dịch vụ và bảo đảm an ninh, an toàn. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, về chuyển đổi nhận thức: Con người là trung tâm, chủ thể, mục tiêu và là động lực phát triển của chuyển đổi số. Vì vậy, để chuyển đổi số thành công, trước hết cần chuyển đổi nhận thức, tư duy để thực hiện chuyển đổi từ môi trường truyền thống lên môi trường số hiệu quả. Đây là nhiệm vụ, giải pháp nền tảng, quan trọng hàng đầu cần được thực hiện trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia. Tại Nghị quyết số 52/NQ -TW và Quyết định số 749/QĐ-TTg đều đặt vấn đề về đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức là nhiệm vụ cần thực hiện trước tiên; trong đó Quyết định số 749/QĐ-TTg nêu rõ, nhận thức đóng vai trò quyết định trong chuyển đổi số. Xác định vai trò của chuyển đổi nhận thức, Ngân hàng Nhà nước là một trong các bộ, ngành đầu tiên thành lập Ban Chỉ đạo chuyển đổi số (năm 2021) và công bố lựa chọn ngày 11-5 hằng năm là Ngày Chuyển đổi số ngành ngân hàng nhằm lan tỏa tinh thần, nâng cao nhận thức của tổ chức, cá nhân về vai trò, lợi ích của chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức tọa đàm, hội thảo, khóa đào tạo cho các cấp lãnh đạo, nhân viên về công tác chuyển đổi số, đồng thời chú trọng triển khai chương trình phổ biến kiến thức ngân hàng - tài chính cho người dân.
Thứ hai, về kiến tạo thể chế: Hoạt động tiền tệ, ngân hàng là lĩnh vực có tính tuân thủ cao, do đó khung khổ pháp lý có vai trò quan trọng mang tính quyết định đối với sự vận hành và phát triển của sản phẩm, dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số. Việc thiếu hành lang pháp lý đồng bộ là một trong các nguyên nhân có thể làm chậm quá trình số hóa của các tổ chức tín dụng. Điều đó đòi hỏi hệ thống chính sách, quy định quản lý của ngành liên tục bổ sung, hoàn thiện để tạo thuận lợi cho hoạt động chuyển đổi số ngân hàng. Theo hướng này, Ngân hàng Nhà nước đã tập trung: Nghiên cứu, rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các vấn đề cần được luật hóa để phù hợp với thực tiễn hoạt động; Ban hành và tổ chức triển khai các đề án, chương trình, kế hoạch nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng; Nghiên cứu, xây dựng, ban hành các văn bản tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động chuyển đổi số của ngành. Ngân hàng Nhà nước cũng đang trong tiến trình hoàn thiện Dự thảo Luật và trình Chính phủ các nghị định để tạo tiền đề cho ứng dụng công nghệ số trong hoạt động ngân hàng. Như vậy, khuôn khổ pháp lý thúc đẩy chuyển đổi số ngành ngân hàng ngày càng được hoàn thiện theo hướng phù hợp hơn với thay đổi nhanh chóng của thực tiễn trong thời đại số. Năm 2020 - 2021, Ngân hàng Nhà nước liên tục xếp thứ hạng cao trong các bộ, ngành về chỉ số kiến tạo thể chế chuyển đổi số.
Thứ ba, về phát triển hạ tầng chuyển đổi số: Nếu ví chuyển đổi số là ngôi nhà thì hạ tầng số chính là nền móng, do đó phát triển hạ tầng số sẽ tạo bệ phóng vững chắc cho chuyển đổi số. Hạ tầng số phục vụ chuyển đổi số ngân hàng hiện nay, bao gồm các hệ thống thanh toán quan trọng và hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin của mỗi tổ chức tín dụng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, hệ thống thông tin tín dụng quốc gia; các hạ tầng kỹ thuật của các đơn vị, ngành, lĩnh vực khác có kết nối với ngành ngân hàng trong quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ cho khách hàng. Thời gian qua, hạ tầng chuyển đổi số luôn được quan tâm đầu tư, tạo nền tảng cho quá trình chuyển đổi số ngành ngân hàng. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử... thường xuyên được nâng cấp về năng lực xử lý, bảo đảm hoạt động liên tục, thông suốt và an toàn, đáp ứng nhu cầu thanh toán điện tử toàn quốc. Ngành Ngân hàng đặt mục tiêu xây dựng hệ sinh thái tích hợp toàn bộ hệ thống, hướng tới kết nối liên thông các bộ, ngành. Không chỉ phát triển ở phạm vi trong nước, Việt Nam còn triển khai thử nghiệm QR Code với Thái Lan, Cam-pu-chia và sẽ tiếp tục mở rộng ra các nước trong khu vực trong thời gian tới. Bên cạnh đó, hạ tầng thông tin tín dụng cũng được đầu tư, nâng cấp để tăng mức độ xử lý, khả năng tự động cập nhật, đồng thời tăng khả năng thu thập và xử lý dữ liệu trong và ngoài ngành, nâng mức độ phủ sóng trên 72,75% người trưởng thành với 55 triệu tài khoản và mức độ cập nhật trên 98%. Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Bộ Công an ký thỏa thuận xác thực 51 triệu dữ liệu thông tin tín dụng khách hàng để làm sạch dữ liệu. Đến nay, CIC và C06 đã phối hợp hoàn thành xác thực 4 đợt với 42,3 triệu hồ sơ khách hàng theo phương thức ngoại tuyến (offline), tạo cơ sở quan trọng để lành mạnh thông tin tín dụng, phòng, tránh việc lừa đảo, tội phạm hoạt động trong lĩnh vực này. Triển khai thực hiện Đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, Ngân hàng Nhà nước đã thành lập Tổ Công tác của ngành ngân hàng triển khai Đề án 06 (Quyết định 06/QĐ-TTg ngày 6-1-2022 của Thủ tướng Chính Phủ) và ban hành Kế hoạch của ngành ngân hàng triển khai Đề án 06 giai đoạn 2022 - 2025 và Kế hoạch nhiệm vụ chi tiết từng năm. Nhờ chủ động triển khai đồng bộ các giải pháp, Ngành Ngân hàng đã đạt được một số kết quả tích cực. Dịch vụ công của Ngân hàng Nhà nước đã hoàn thành kết nối, khai thác Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư chính thức từ tháng 12-2022 và bước đầu phối hợp triển khai kết nối phục vụ công tác phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố. Nhiều ngân hàng đã phối hợp với Bộ Công an thử nghiệm thành công một số giải pháp ứng dụng xác thực người dân qua thẻ căn cước công dân gắn chíp trong một số nghiệp vụ ngân hàng.
Thứ tư, về phát triển các mô hình, sản phẩm, dịch vụ ngân hàng số: Xuyên suốt chặng đường chuyển đổi số với mục tiêu lấy khách hàng làm trung tâm, hệ thống tổ chức tín dụng đã tích cực đầu tư và phát triển các mô hình, sản phẩm, dịch vụ ngân hàng số. Theo đó, thời gian qua, các ngân hàng đã chủ động ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số tiên tiến, như điện toán đám mây, phân tích dữ liệu lớn, tự động hóa quy trình bằng rô-bốt, trí tuệ nhân tạo, máy học... vào các hoạt động ngân hàng, cung ứng các sản phẩm dịch vụ an toàn, tiện ích nhằm gia tăng trải nghiệm cho khách hàng. Các ngân hàng cũng xây dựng thiết lập các trung tâm, đơn vị riêng trong nội bộ nhằm nghiên cứu, đẩy mạnh chuyển đổi số ngân hàng. Nhiều ngân hàng chủ động hợp tác với hãng công nghệ lớn, công ty công nghệ tài chính để nâng cao hiệu quả vận hành qua ứng dụng các công nghệ, giải pháp số tiên tiến, cho ra đời các dịch vụ ngân hàng số thế hệ mới hướng đến đối tượng khách hàng trẻ, năng động, am hiểu công nghệ và chú trọng vào trải nghiệm khách hàng vượt trội chỉ trên kênh số. Các ngân hàng cũng hợp tác với đơn vị bán hàng hóa, dịch vụ để cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng và ngoài ngân hàng một cách an toàn, thuận tiện, tích hợp sâu vào hành trình số của khách hàng. Đến nay, hầu hết ngân hàng đã và đang xây dựng chiến lược chuyển đổi số và phát triển dịch vụ ứng dụng trên internet và điện thoại di động. Các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng đã cho ra mắt ứng dụng ngân hàng số và nỗ lực tạo sự khác biệt cho sản phẩm số giữa các ngân hàng thương mại. Nhiều nghiệp vụ ngân hàng, như mở tài khoản thanh toán, thanh toán chuyển tiền, gửi tiền/gửi tiết kiệm đã được số hóa toàn diện 100%, cho phép khách hàng thực hiện hoàn toàn trên kênh số; nhiều ngân hàng Việt Nam đã ghi nhận tỷ lệ hơn 90% giao dịch của khách hàng được thực hiện qua kênh số. Hệ sinh thái ngân hàng số, thanh toán số đã được thiết lập với việc kết nối dịch vụ ngân hàng số với nhiều dịch vụ số khác trong nền kinh tế mang lại các trải nghiệm liền mạch và lợi ích to lớn cho người sử dụng dịch vụ trên không gian số.
Thứ năm, bảo đảm an toàn, an ninh mạng, bảo mật thông tin khách hàng: Chuyển đổi số cần đi liền với bảo đảm an ninh, an toàn, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng, qua đó bảo đảm sự phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng, giúp tạo lập niềm tin và sự gắn bó của khách hàng đối với các sản phẩm, dịch vụ số. Tại Chiến lược phát triển công nghệ thông tin ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, nhiệm vụ bảo đảm an toàn thông tin được xác định là một trong những trụ cột chính của phát triển công nghệ ngành ngân hàng. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước đã và đang tiếp tục chỉ đạo các đơn vị trong ngành triển khai đồng bộ 5 nhóm giải pháp nhằm bảo đảm an toàn, an ninh mạng hệ thống thông tin và bảo mật dữ liệu khách hàng. Về phía tổ chức tín dụng, các hệ thống thông tin ứng dụng nghiệp vụ được bảo đảm an toàn, hoạt động liên tục, đáp ứng tốt nhu cầu của người dân, doanh nghiệp. Với những nỗ lực trong thời gian qua, Ngành Ngân hàng đã được Bộ Thông tin và Truyền thông đánh giá xếp hạng cao nhất trong các ngành về mức độ sẵn sàng ứng dụng công nghệ thông tin và bảo đảm an toàn thông tin trong năm 2020 và năm 2021.
Những con số ấn tượng
|
Khách hàng sử dụng dịch vụ VCB Digibank. Ảnh: Vietcombank. |
Bằng những nỗ lực, cố gắng bền bỉ trong suốt thời gian qua cùng sự phối hợp, hỗ trợ từ các bộ, ban ngành liên quan, Ngành Ngân hàng đã đạt được những thành quả đáng khích lệ trong quá trình chuyển đổi số và được quốc tế ghi nhận. Ngân hàng Nhà nước luôn được đánh giá cao trong bộ chỉ số chuyển đổi số của các bộ, ngành; chỉ số kiến tạo thể chế về chuyển đổi số; chỉ số an toàn, an ninh mạng. Trong 7 năm đánh giá cải cách hành chính theo chỉ số PAR Index của Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước có 7 năm liên tiếp xếp vị trí đứng đầu khối các bộ, ngành Trung ương. Ngân hàng Nhà nước liên tiếp được xếp thứ hạng cao về chỉ số chuyển đổi số bộ, ngành (DTI). Hãng tư vấn chiến lược toàn cầu McKinsey đánh giá ngành ngân hàng Việt Nam có mức độ ứng dụng ngân hàng số với tốc độ nhanh nhất trong khu vực.
Đến nay, hơn 87% người trưởng thành đã có tài khoản thanh toán tại ngân hàng và nhiều ngân hàng đã có trên 95% số lượng giao dịch được xử lý trên kênh số; hạ tầng công nghệ ngân hàng thường xuyên được đầu tư nâng cấp, phát triển, đảm bảo hoạt động liên tục, thông suốt, an toàn; hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng xử lý bình quân 830 nghìn tỉ đồng/ngày (tương đương 40 tỉ USD), hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử xử lý bình quân 20 - 25 triệu giao dịch/ngày.
Trong thời qua, ngành Ngân hàng đã tích cực triển khai kế hoạch chuyển đổi số, nhiều mục tiêu đã tiệm cận hoặc vượt mục tiêu đặt ra đến năm 2025: Tại Ngân hàng Nhà nước, 100% thủ tục hành chính đủ điều kiện được cung cấp dưới hình thức tích hợp trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia; trên 90% hồ sơ công việc được xử lý và lưu trữ. Tại các tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài, có 80% hồ sơ công việc được xử lý trên môi trường số, 55% nghiệp vụ ngân hàng số hóa hoàn toàn, 49% khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán điện tử, 66% số lượng giao dịch của khách hàng thực hiện trên kênh số, 17 TCTD đã số hóa hoàn toàn với các khoản vay cá nhân, nhỏ lẻ. Giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt qua các kênh Mobile, Internet, QR Code tiếp tục tăng trưởng trên 100%/năm.
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành và triển khai kiến trúc Chính phủ điện tử 2.0; ứng dụng công nghệ trong công tác xử lý văn bản, quản trị điều hành. Các TCTD tiếp tục đẩy mạnh tích hợp, kết nối mở rộng với các ngành, lĩnh vực khác để thiết lập hệ sinh thái số và cung ứng đa dạng các sản phẩm, dịch vụ thân thiện, an toàn tiện lợi, tiết giảm chi phí, 57% các ngân hàng trong nước đã thí điểm và triển khai rộng rãi mô hình chi nhánh tự phục vụ cho phép khách hàng tự thực hiện, hơn 70% các TCTD đã và đang triển khai hệ thống Data Warehouse, hơn 40% các TCTD đã và đang triển khai hệ thống Data Lake thu thập cả các dữ liệu cấu trúc, phi cấu trúc.
Nhận diện nút thắt
Bên cạnh những thành tựu mà ngành ngân hàng đạt được vẫn còn nhiều thách thức phía trước, đó là:
Một là, trong bối cảnh tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cơ sở pháp lý để thúc đẩy ngân hàng số, thúc đẩy đổi mới sáng tạo vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ, rõ ràng, cần được tiếp tục rà soát, bổ sung và ban hành.
Hai là, sự đồng bộ và chuẩn hóa kết cấu hạ tầng kỹ thuật nhằm tạo thuận lợi cho sự kết nối liên thông, tích hợp liền mạch giữa ngành ngân hàng với các ngành, lĩnh vực khác để hình thành hệ sinh thái số, cung ứng dịch vụ đa tiện ích cho khách hàng còn nhiều thách thức.
Ba là, việc ứng dụng công nghệ trong ngành ngân hàng được quan tâm, nhưng chưa bảo đảm được sự đồng bộ trong toàn hệ thống để tạo ra các bước đột phá và chuyển biến lớn trong toàn ngành. Việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng hiện đại, có hàm lượng đổi mới sáng tạo cao phần lớn tập trung tại các ngân hàng lớn trong hệ thống, khả năng bao phủ trên toàn quốc còn hạn chế.
Bốn là, xu hướng gia tăng tội phạm công nghệ với những thủ đoạn mới ngày càng tinh vi, khó lường làm gia tăng rủi ro an ninh mạng. Nhận thức của các bên liên quan, người dùng về chuyển đổi số, về rủi ro trong giao dịch trực tuyến còn hạn chế. Một bộ phận người dân, nhất là ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn tâm lý e ngại khi tiếp cận và sử dụng các dịch vụ thanh toán trên nền tảng số.
Năm là, thiếu đội ngũ chuyên gia, đội ngũ cán bộ có năng lực cao về công nghệ thông tin, chuyển đổi số, thực sự chuyên nghiệp có tầm khu vực và quốc tế.
Giải pháp, kiến nghị
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, tạo khuôn khổ pháp luật đẩy mạnh phát triển kinh tế số. Xây dựng nền tảng, thể chế cho các mô hình kinh doanh kinh tế số, trong đó, sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật cho các ngành đang có nhiều mô hình kinh doanh mới như thương mại điện tử, tài chính số, ngân hàng số kết hợp xây dựng cơ chế quản lý phù hợp với môi trường kinh doanh số, điều chỉnh các mối quan hệ mới phát sinh trong quá trình chuyển đổi số, phát triển kinh tế số. Song song với đó là tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, giảm thiểu thủ tục hành chính, cung cấp các dịch vụ tư vấn, hỗ trợ kỹ thuật cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế cá nhân trong việc tiếp cận và chuyển đổi số.
Thứ hai, đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật số; mở rộng và nâng cấp hạ tầng mạng; đầu tư vào việc xây dựng các trạm phát sóng, cáp quang, đặc biệt ở các vùng nông thôn, miền núi để xóa bỏ khoảng cách số; tiếp tục triển khai mạng 5G trên diện rộng, kết hợp với việc nâng cấp mạng 4G để bảo đảm kết nối ổn định và tốc độ cao cho người dùng, tạo cơ sở hạ tầng tốt cho việc kết nối theo xu hướng IoT (Internet of Things – Internet vạn vật), mở ra nhiều cơ hội kinh doanh lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs); phát triển các trung tâm dữ liệu hiện đại, đáp ứng nhu cầu lưu trữ và xử lý dữ liệu lớn của các doanh nghiệp và tổ chức; mở rộng kết nối Internet trong nước, khu vực và quốc tế; chuyển đổi toàn bộ mạng Internet Việt Nam sang ứng dụng giao thức Internet thế hệ mới; triển khai việc tích hợp cảm biến và ứng dụng công nghệ số vào hệ thống hạ tầng giao thông, điện, nước, quản lý đô thị; xây dựng hệ thống hạ tầng thanh toán số quốc gia đồng bộ, thống nhất để thúc đẩy việc thanh toán không dùng tiền mặt.
Thứ ba, bảo đảm an toàn, an ninh mạng, bảo mật dữ liệu công dân. Xây dựng hệ thống phòng thủ mạng đa lớp bằng cách đầu tư vào các hệ thống phát hiện và ngăn chặn xâm nhập, tường lửa, hệ thống quản lý sự kiện bảo mật song song đó là việc nâng cao nhận thức về an ninh mạng cho người dùng; phát triển đội ngũ chuyên gia an ninh mạng thông qua việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia an ninh mạng có trình độ cao. Ngoài ra, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực an ninh mạng, tham gia các diễn đàn, hội nghị về an ninh mạng để chia sẻ kinh nghiệm và học hỏi các giải pháp mới cũng là một trong những cách để nâng cao an ninh mạng quốc gia tại Việt Nam.
Thứ tư, xúc tiến nhanh hơn nữa một Chính phủ điện tử. Có giải pháp để quản lý, tra soát và hướng dẫn công dân hoàn thiện định danh VNeID theo như kế hoạch mục tiêu đã đề ra. Từ đó, mọi công dân Việt Nam đều có thể dễ dàng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ, tiện ích của Chính phủ điện tử, nơi mà Chính phủ sử dụng công nghệ thông tin và đặc biệt là Internet để hỗ trợ các hoạt động của Chính phủ.
Thứ năm, thúc đẩy nhanh chóng và hoàn thiện về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính trong lĩnh vực ngân hàng. Thông qua cơ chế thử nghiệm, chúng ta có thể đạt được các mục tiêu liên quan tới việc phổ cập tài chính cho người dân và doanh nghiệp theo hướng minh bạch, thuận tiện, hiệu quả với chi phí thấp; tạo lập môi trường thử nghiệm nhằm đánh giá rủi ro, chi phí, lợi ích của giải pháp Fintech; hỗ trợ xây dựng, phát triển các giải pháp Fintech phù hợp với nhu cầu thị trường, khung khổ pháp lý, quy định quản lý. Cùng với đó, kết quả triển khai thử nghiệm giải pháp Fintech cũng được sử dụng làm căn cứ thực tiễn để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp lý, quy định quản lý liên quan.
Thứ sáu, tăng cường giáo dục kỹ thuật số, thúc đẩy đào tạo nguồn lao động chất lượng cao. Tổ chức các chương trình đào tạo, bồi dưỡng về kỹ năng số cho lực lượng lao động hiện tại, đặc biệt là cán bộ, công chức, viên chức; phát triển các chương trình đào tạo chuyên sâu về các công nghệ mới như AI, Big Data, Blockchain cho sinh viên và người đi làm. Bên cạnh đó, chú trọng giáo dục kỹ thuật số trong hệ thống giáo dục hiện nay tại Việt Nam, kết nối giữa giáo dục phổ thông, đại học và doanh nghiệp để bảo đảm chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động, khuyến khích các trường đại học, cao đẳng, mở các ngành đào tạo liên quan đến công nghệ thông tin và kỹ thuật số. Ngoài ra, thực hiện các chính sách thu hút nhân tài, khuyến khích các chuyên gia công nghệ thông tin trong và ngoài nước; xây dựng các chính sách ưu đãi về thuế, visa cho các chuyên gia nước ngoài đến làm việc tại Việt Nam.
Các kiến nghị đối với ngành Ngân hàng
Để việc thực hiện Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 được thuận lợi, đúng lộ trình và đáp ứng được mục tiêu của chương trình, bên cạnh yêu cầu về sự phối hợp của các bộ, ngành nói chung thì riêng ngành ngân hàng cũng cần phải:
Tạo lập hệ sinh thái mở: Khuyến khích hợp tác giữa ngân hàng và Fintech, xây dựng các nền tảng mở để chia sẻ dữ liệu và phát triển các dịch vụ mới. Ví dụ các ngân hàng có thể hợp tác với các công ty Fintech để phát triển, cải tiến và đổi mới các ứng dụng thanh toán di động, ví điện tử, nâng cao các trải nghiệm của người dùng.
Đầu tư vào công nghệ: Nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin, áp dụng các công nghệ mới như AI, Big Data, Blockchain để tăng hiệu quả và chất lượng dịch vụ. Ví dụ sử dụng AI để phân tích dữ liệu khách hàng, phát hiện hành vi gian lận, hoặc sử dụng Blockchain để đảm bảo tính minh bạch và an toàn cho các giao dịch.
Đổi mới sản phẩm: Phát triển các sản phẩm tài chính phù hợp với nhu cầu của khách hàng, đặc biệt là thế hệ trẻ. Ví dụ phát triển các sản phẩm cho vay tiêu dùng online, các sản phẩm đầu tư đa dạng.
Tập trung vào trải nghiệm khách hàng: Xây dựng các ứng dụng di động thân thiện, cung cấp dịch vụ khách hàng 24/7. Ví dụ phát triển các chatbot (chương trình máy tính thông minh được thiết kế để tự động tương tác với người dùng thông qua các cuộc trò chuyện trực tuyến) với sự hỗ trợ của AI để hỗ trợ khách hàng giải đáp thắc mắc cùng với các ứng dụng di động cho phép khách hàng thực hiện các giao dịch ngân hàng mọi lúc mọi nơi.
Bảo mật thông tin: Bảo an toàn thông tin cho khách hàng, phòng chống gian lận và tấn công mạng. Ví dụ đầu tư vào các hệ thống tường lửa, hệ thống phát hiện xâm nhập, và thường xuyên cập nhật các phần mềm bảo mật.
Lê Thị Kiều My (Phó Trưởng Phòng Quản lý nợ bán buôn), Nguyễn Văn Tài (Phó Trưởng Phòng Khách hàng Bán lẻ 3), Võ Đình Trúc, Đoàn Quốc Huy, Nguyễn Thị Tường Vy (Phòng Khách hàng Doanh nghiệp 1) – Vietcombank Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh