Phát triển toàn diện về quy mô, mạng lưới trường lớp giáo dục mầm non
Phát biểu tại phiên họp, đồng chí Nguyễn Bá Minh, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Mầm non, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết, trong thời gian qua, giáo dục mầm non (GDMN) đã từng bước vượt qua khó khăn, phát triển khá toàn diện về quy mô, mạng lưới trường lớp, các điều kiện chăm sóc, giáo dục trẻ. Chất lượng chăm sóc giáo dục được nâng lên; trẻ em vùng miền núi, dân tộc thiểu số được chuẩn bị về tiếng Việt và được hỗ trợ ăn trưa nên tỷ lệ ra lớp cao hơn, bảo đảm chuyên cần. Trẻ em mẫu giáo 5 tuổi được chuẩn bị tốt các điều kiện sẵn sàng vào học lớp một; việc thực hiện công bằng trong giáo dục từng bước được bảo đảm.
Đặc biệt, việc thực hiện thành công các mục tiêu cơ bản của Đề án phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi đã góp phần nâng cao tỷ lệ trẻ em được tới trường/lớp; thu hút được một nguồn lực lớn để đầu tư cơ sở vật chất theo yêu cầu kiên cố hóa, chuẩn hóa phục vụ công tác chăm sóc và giáo dục trẻ ở các địa phương. Kết quả thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi có tác dụng tốt đối với sự phát triển của trẻ 5 tuổi, tạo sự an tâm, tin tưởng của cha mẹ trẻ và cộng đồng đối với GDMN.
Thứ trưởng Đặng Hoàng Oanh chủ trì phiên họp.
Tuy nhiên, GDMN vẫn còn một số khó khăn, thách thức như: trẻ em ở vùng khó khăn, trẻ em đối tượng yếu thế chưa được tiếp cận với GDMN, tạo sự mất công bằng trong tiếp cận giáo dục; các điều kiện về phòng học, đội ngũ giáo viên còn hạn chế; cơ chế, chính sách đầu tư, xã hội hóa giáo dục chưa đáp ứng yêu cầu phát triển GDMN.
Đồng chí Nguyễn Bá Minh, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Mầm non, Bộ Giáo dục và Đào tạo trình bày tóm tắt nội dung Tờ trình.
Trên cơ sở đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đề nghị xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi nhằm triển khai chủ trương, đường lối, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Ban Chấp hành Trung ương, chỉ đạo của Chính phủ về phổ cập GDMN trên phạm vi cả nước. Bên cạnh đó, xây dựng hành lang pháp lý để huy động nguồn lực đầu tư; đảm bảo trẻ em mẫu giáo được tiếp cận giáo dục mầm non có chất lượng; chuẩn bị tốt về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ, ngôn ngữ và tâm lý sẵn sàng đi học, góp phần thực hiện quyền của trẻ em.
Cần các chính sách mới để thu hút đội ngũ giáo viên mầm non
Phát biểu tại phiên họp, đại diện Văn phòng Quốc hội cho biết, có 2 nguồn kinh phí thực hiện các chính sách gồm: ngân sách nhà nước theo phân cấp ngân sách hiện hành và nguồn vốn xã hội hoá giáo dục, các nguồn vốn huy động hợp pháp khác. Tuy nhiên, cơ quan chủ trì soạn thảo cần làm rõ những nội dung nào thuộc trách nhiệm đầu tư của nhà nước, nội dung nào sẽ huy động các nguồn vốn xã hội hoá; đồng thời tham khảo, lấy ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương để đảm bảo phù hợp với cơ cấu ngân sách, điều kiện của từng vùng miền và bối cảnh mới của đất nước.
Đại diện Văn phòng Quốc hội.
Đồng chí cho biết thêm, một trong những khó khăn hiện nay là tình trạng thiếu giáo viên mầm non tại các tỉnh thành. Để giải quyết tình trạng này, theo đồng chí, bên cạnh những chính sách hỗ trợ ngắn hạn, cơ quan chủ trì soạn thảo cần nghiên cứu, đề xuất thêm các chính sách lâu dài như thu hút người học vào ngành sư phạm mầm non; ưu đãi về tuyển dụng, đãi ngộ, tôn vinh GVMN… Đồng thời, đồng chí đề nghị cơ quan chủ trì quan tâm, đề xuất giải pháp để khắc phục tình trạng thiếu trường, lớp ở các đô thị lớn và các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Ngoài ra, hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đang xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về đổi mới Chương trình GDMN. Do vậy, đồng chí đề nghị rà soát các nội dung tại hồ sơ xây dựng giữa 2 Nghị quyết này để tránh trùng lặp về mục tiêu, nội dung dẫn tới lãng phí nguồn kinh phí thực hiện.
Đại diện Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội nhất trí về sự cần thiết phải phổ cập GDMN cho trẻ em mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi, nâng cao tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo được tiếp cận GDMN. Tuy nhiên, thành phần hồ sơ lập đề nghị xây dựng Nghị quyết cần tuân thủ theo quy định tại Điều 59 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015; đồng thời, bảo đảm sự thống nhất về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng giữa Nghị quyết này với các Nghị quyết, chương trình giáo dục liên quan đang được Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng. Đồng chí cũng yêu cầu cơ quan chủ trì rà soát các nội dung liên quan đến miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập với các quy định tại Nghị định số 81/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo.
Đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Đối với nội dung “Đầu tư xây dựng phát triển cơ sở giáo dục mầm non theo phương thức đối tác công tư (trường công, quản lý tư), không áp dụng quy định về quy mô tổng mức đầu tư tối thiểu của dự án PPP lĩnh vực giáo dục – đào tạo của Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư đối với các dự án đầu tư cơ sở giáo dục mầm non”, đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị bổ sung làm rõ cơ sở, lý do đề xuất mô hình trường công, quản lý tư tại Nghị quyết; cùng với đó đề xuất phương án quản lý, đánh giá tác động của chính sách này. Ngoài ra, đồng chí đề nghị nêu rõ trường hợp không áp dụng quy định về quy mô tổng mức đầu tư tối thiểu của dự án PPP lĩnh vực giáo dục – đào tạo của Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư thì sẽ thực hiện theo phương án nào, tổng mức đầu tư được đề xuất là bao nhiêu; từ đó làm căn cứ xem xét, cho ý kiến về tính khả thi của chính sách được đề xuất.
Bên cạnh đó, đồng chí đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo bổ sung, làm rõ trong Tờ trình việc xây dựng Nghị quyết có thuộc đối tượng quy định tại điểm b và c khoản 2 Điều 15 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hay không.
Kết thúc phiên họp, Bộ Tư pháp đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu tiếp thu đầy đủ những ý kiến của các thành viên Hội đồng thẩm định; tiếp tục phối hợp với các cơ quan liên quan rà soát, chỉnh lý hoàn thiện dự thảo Nghị quyết.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đề nghị xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi theo 3 chính sách, cụ thể: Ưu đãi đối với trẻ em mẫu giáo trong độ tuổi thực hiện phổ cập, đảm bảo tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo được huy động đến cơ sở GDMN để được nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục theo Chương trình GDMN; thu hút đội ngũ, ưu đãi đối với cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên cấp học mầm non thực hiện phổ cập giáo dục mẫu giáo; phát triển mạng lưới trường, lớp GDMN, bổ sung cơ chế, chính sách phát triển mạng lưới trường lớp đáp ứng nhu cầu tới trường của trẻ em mẫu giáo. |
Anh Thư - Trung tâm Thông tin