Thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phát triển là chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, đồng thời cũng là nhu cầu của doanh nghiệp nhằm vượt qua khó khăn trong quá trình mở rộng, phát triển doanh nghiệp. Để có thể phát triển doanh nghiệp cần có môi trường thuận lợi về thể chế, về tiếp cận các nguồn lực và nguồn nhân lực, cần có thị trường…Ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế có những giải pháp cụ thể khác nhau để hỗ trợ doanh nghiệp hiệu quả. Bài viết này khái quát các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp qua các giai đoạn phát triển trong gần 40 năm đổi mới ở Việt Nam.
1. Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp những năm đổi mới phụ thuộc rất nhiều vào quá trình đổi mới tư duy kinh tế, nhất là nhận thức về vai trò của kinh tế tư nhân cũng như sự biến động của môi trường phát triển như các cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á năm 1997 - 1998, khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009, sự bùng nổ đại dịch Covid-19…
Giai đoạn những năm đầu đổi mới đến năm 2000, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tập trung tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân hình thành, tham gia vào nền kinh tế và hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý. Có thể nêu một số chính sách cơ bản sau:
Về chính sách cơ cấu, Chính phủ tập trung triển khai thực hiện đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước. Khi bước vào quá trình đổi mới, các doanh nghiệp nhà nước gặp nhiều khó khăn, các chính sách tập trung đổi mới quản lý doanh nghiệp đã hỗ trợ các DNNN thích ứng với môi trường kinh doanh mới. Nhà nước đã cổ phần hoá, chuyển đổi từ sở hữu nhà nước sang sở hữu hỗn hợp, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thu hút vốn đầu tư từ khu vực tư nhân. Nhà nước ban hành các quy định nhằm tăng quyền tự chủ của các DNNN trong quản lý và điều hành, giúp doanh nghiệp linh hoạt hơn trong việc ra các quyết định trước các biến động của thị trường. Đi liền với đó, Nhà nước thực hiện tái cơ cấu các DNNN, thay vì dàn trải các lĩnh vực, tập trung vào những ngành và lĩnh vực then chốt, có lợi thế cạnh tranh. Những chính sách này đã góp phần nâng cao hiệu quả DNNN, giảm bớt các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ.
Cùng với cải cách DNNN, Chính phủ thực thi các chính sách khuyến khích doanh nghiệp tư nhân phát triển, tham gia vào nền kinh tế. Có thể thấy từ Đại hội VI đến Đại hội VIII (1986-2001) tư duy về vai trò kinh tế tư nhân có bước phát triển quan trọng. Từ việc khẳng định cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế phi XHCN và khẳng định kinh tế tư nhân được phát triển trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh tại Đại hội VI đến quan điểm cần khuyến khích và tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn tại Đại hội VII và nhất quán quan điểm đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế tại Đại hội VIII, đã tạo bước đột phá tư duy phát triển kinh tế tư nhân. Với sự đổi mới này đã thúc đẩy ra đời những văn bản pháp lý hỗ trợ cho kinh tế tư nhân phát triển[1]. Hệ thống văn bản pháp lý này đã có ý nghĩa quan trọng nhằm khẳng định quyền sở hữu và tự do kinh doanh của cá nhân và pháp nhân. Chính từ đây thể chế pháp lý quản lý các doanh nghiệp được nhất quán thay cho thể chế quản lý riêng các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau từ năm 1986. Nói cách khác, việc các thị trường và yếu tố thị trường được xây dựng và thể chế hóa đã đồng thời tạo lập nền tảng cơ bản, bình đẳng hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân.
Đi liền với thông qua các luật trên, Chính phủ đã thúc đẩy cải cách hành chính, giảm bớt các thủ tục hành chính tạo điều kiện cho thành lập và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Công cuộc cải cách hành chính ở Việt Nam được tiến hành từ đầu những năm 1990 nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/HNTW khoá VII (1995) về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, trọng tâm là cải cách nền hành chính nhà nước với 3 nội dung chủ yếu là cải cách thể chế của nền hành chính, chấn chỉnh tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Vai trò của cải cách hành chính đã được khẳng định và những hoạt động cải cách hành chính ngày càng đi vào chiều sâu, tác động mạnh mẽ đến đời sống xã hội, trở thành động lực thúc đẩy tiến trình đổi mới, hỗ trợ và thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp.
Triển khai các chính sách tài chính-tiền tệ. Thực hiện chính sách thuế ưu đãi để giảm gánh nặng tài chính cho các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có thêm nguồn lực đầu tư phát triển. Chẳng hạn, các chính sách miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, hoặc thực hiện ưu đãi thuế suất đối với một số ngành nghề, khu vực nhất định. Đối với các doanh nghiệp đầu tư vào các dự án mới hoặc mở rộng sản xuất có thể được khấu trừ thuế đầu tư, hoặc miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị, nguyên liệu để sản xuất. Các chính sách ưu đãi về thuế được quy định cụ thể trong các luật thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế lợi túc…Chẳng hạn trong Luật thuế doanh thu năm 1997 quy định: Cơ sở sản xuất trong nước mới thành lập được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 2 năm đầu, kể từ khi có thu nhập chịu thuế và được giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong thời gian 2 năm tiếp theo. Trường hợp cơ sở sản xuất thành lập ở miền núi, hải đảo và vùng có khó khăn khác thời gian giảm thuế được kéo dài thêm 2 năm nữa.
Trong giai đoạn này Nhà nước thông qua các ngân hàng thương mại quốc doanh thực hiện khuyến khích cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ; cùng với giảm và miễn thuế Nhà nước triển khai chính sách khuyến khích đầu tư trong nước thông qua cung cấp các ưu đãi về thuế và hỗ trợ kỹ thuật cho các dự án đầu tư. Bên cạnh đó, nhằm thúc đẩy xuất khẩu, Nhà nước hỗ trợ tài chính và kỹ thuật, bao gồm cung cấp các khoản vay ưu đãi, hỗ trợ tìm kiếm thị trường xuất khẩu quốc tế, đồng thời thực thi chính sách nới lỏng tiền tệ hỗ trợ các doanh nghiệp như giảm lãi suất, gia hạn thời gian trả nợ và cung cấp các gói tín dụng ưu đãi. Trong thời gian khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998 Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt và thận trọng, góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 đến các doanh nghiệp; tiếp tục hoàn thiện cơ chế điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là cơ chế điều hành lãi suất; ban hành các quy định và thiết chế an toàn để tăng cường khả năng ngăn ngừa biến động xấu của tổ chức tín dụng; áp dụng trích lập dự phòng rủi ro theo hướng tăng dần; thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại và thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội nhằm ổn định thị trường hỗ trợ các doanh nghiệp.
Bước vào những năm 2000 mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN được nhận thức ngày càng rõ hơn. Quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường được đẩy mạnh với việc ban hành một loạt đạo luật[2] đã từng bước hoàn thiện hơn môi trường pháp lý cho các doanh nghiệp trong nước hoạt động.
Cùng với hoàn thiện thể chế, các chính sách về cải cách thủ tục hành chính tiếp tục được đẩy mạnh với việc thực hiện Chương trình tổng thể về cải cách hành chính giai đoạn 1 từ năm 2001 đến năm 2010 với mục tiêu xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Đến năm 2010, hệ thống hành chính về cơ bản được cải cách phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Kết quả này đã trực tiếp tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi hơn đối với các doanh nghiệp.
Các chính sách hỗ trợ tài chính và xuất khẩu thông qua các giải pháp về thuế, như giảm, miễn thuế, cho vay vốn với lãi xuất ưu đãi, hỗ trợ tìm kiếm thị trường tiếp tục được triển khai và đẩy mạnh hơn hơn. Đặc biệt trong điều kiện tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009 dẫn đến những bất ổn về kinh tế, Nhà nước quyết định áp dụng một loạt chính sách nhằm ngăn chặn suy giảm và hỗ trợ doanh nghiệp. Gói chính sách gồm hỗ trợ lãi suất 4% một năm cho các tổ chức, cá nhân vay vốn để sản xuất, kinh doanh; giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp, 50% thuế VAT, miễn thuế thu nhập cá nhân trong 6 tháng và kích đầu tư...Đi liền với đó triển khai chính sách tiền tệ linh hoạt, giai đoạn đầu khủng hoảng nhằm kìm chế lạm phát, đã thực hiện chính sách thặt chặt thông qua các biện pháp: (i) Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc; (ii) Phát hành 20.300 tỷ đồng trái phiếu cho các ngân hàng thương mại nhằm hút bớt tiền trong lưu thông; (iii) Khống chế tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức 30% năm. Tuy nhiên, chính sách này đã làm giảm tổng cầu, ảnh hưởng đến tăng trưởng và hoạt động của các doanh nghiệp, nên từ tháng 10/2008 đến tháng 10/2010 trở lại bắt đầu nới lỏng chính sách tiền tệ nhằm kích thích tăng trưởng và sau đó lại thắt chặt để ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát tăng cao từ cuối năm 2010.
Giai đoạn này Việt Nam triển khai Chương trình Thương hiệu quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng năng lực lực phát triển thương hiệu thông qua các hoạt động đào tạo, tư vấn và thông tin, nhằm nâng cao trình độ sản xuất, kinh doanh và năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Đồng thời triển khai các chính sách trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua ban hành Nghị định 90/2001/NĐ-CP và triển khai chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp theo Nghị định số 66/2008/NĐ-CP của Chính phủ.
Nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp, giai đoạn này Việt Nam tập trung vào các chính sách phát triển hạ tầng, cả hạ tầng cứng và hạ tầng mềm. Như tăng mạnh đầu tư lĩnh vực hạ tầng giao thông, với mức trung bình hàng năm giai đoạn 2001-2005 khoảng 12.000 tỷ đồng và giai đoạn 2006-2010 là 36.000 tỷ đồng[3]. Các dự án lớn bao gồm xây dựng và nâng cấp hệ thống đường bộ, đường sắt, cảng biển và sân bay. Hệ thống điện lưới đã được mở rộng và nâng cấp, hệ thống cấp nước và xử lý nước thải cũng được chú trọng đầu tư. Lĩnh vực viễn thông đã có những bước phát triển vượt bậc với việc mở rộng mạng lưới internet và điện thoại di động. Đầu tư vào công nghệ thông tin và truyền thông đã giúp kết nối các vùng miền, thúc đẩy thương mại điện tử và cải thiện dịch vụ công. Cùng với đó, nhà nước đầu tư đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Các chương trình đào tạo và phát triển kỹ năng cho người lao động đã được triển khai để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp.
Giai đoạn từ 2010 đến trước khi đại dịch Covid-19 bùng phát: Việt Nam đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế và cải thiện môi trường kinh doanh[4] như:
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính. Với Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020, đã xác định khung pháp lý cho chiến lược cải cách hành chính trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết 35/NQ-CP (2016) cũng tiếp tục nhấn mạnh cải cách hành chính tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, trong đó có một số nội dung đáng chú ý như: thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương; quán triệt đạo đức công vụ, cải cách hành chính; chống quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu; tinh thần chính quyền phục vụ và hỗ trợ doanh nghiệp. Công khai quy trình và cán bộ có trách nhiệm xử lý hồ sơ, tăng cường thanh tra công vụ; kiên quyết xử lý các cán bộ vi phạm quy trình xử lý hồ sơ, gây phiền hà cho doanh nghiệp… Xây dựng cơ chế đánh giá và chế tài xử lý cán bộ, công chức trực tiếp giải quyết thủ tục hành chính ở tất cả các cơ quan nhà nước từ cấp phường, xã trở lên; sửa đổi các quy định về cấp phép xây dựng để giảm thời gian cấp phép.
Triển khai các chính sách tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo; Xây dựng cơ chế tạo điều kiện, hỗ trợ và khuyến khích hộ kinh doanh cá thể chuyển đổi và đăng ký hoạt động theo Luật Doanh nghiệp; Rà soát, đánh giá việc thực hiện và đề xuất sửa đổi, bổ sung các chính sách đối với doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận đất đai và sử dụng có hiệu quả đất đai nông nghiệp.
Các chính sách tài chính- tiền tệ, như tháo gỡ khó khăn về thuế, giảm thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, giảm 50% thuế thu nhập cá nhân đối với lao động trong một số lĩnh vực. Ngân hàng Nhà nước duy trì mặt bằng lãi suất thị trường ở mức hợp lý. Giảm tiền thuê đất, chi phí chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Điều chỉnh mức phí đường bộ, phí BOT; mở rộng chi phí được giảm trừ cho doanh nghiệp về các hoạt động nâng cao năng lực, tư vấn hỗ trợ thủ tục cho doanh nghiệp, chi phí quảng cáo, tiếp thị...Sửa đổi về giá và phụ thu ngoài giá dịch vụ vận chuyển bằng đường biển. Điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng phù hợp với năng suất lao động, chế độ bảo hiểm xã hội hợp lý, hài hòa lợi ích của người lao động. Sửa đổi điều kiện để kinh doanh dịch vụ phòng cháy chữa cháy, loại bỏ những quy định, điều kiện hạn chế cạnh tranh, tạo điều kiện hỗ trợ doanh nghiệp tham gia cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực này. Ban hành quy định kiểm tra và kiểm toán theo hướng lồng ghép giải quyết các vấn đề phát sinh của doanh nghiệp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp.
Tiếp tục triển khai các chính sách cơ cấu, từ năm 2016 đã có sự thay đổi quan điểm từ hỗ trợ chung chung, đại trà tất cả các doanh nghiệp sang hỗ trợ có lựa chọn theo ngành, lĩnh vực và mục tiêu dài hạn nhất định. Ưu tiên tập trung vào khu vực các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất có lợi thế cạnh tranh quốc gia, có ứng dụng đổi mới sáng tạo, định hướng xuất khẩu, doanh nghiệp liên kết trong chuỗi giá trị, cụm liên kết tạo giá trị gia tăng cao…
Bước sang giai đoạn những năm 2020, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp giai đoạn này tập trung ứng phó với tác động của đại dịch Covid-19 và hỗ trợ phục hồi, phát triển doanh nghiệp sau đại dịch đến nay.
Trong ứng phó với đại dịch nhiều chính sách nhanh chóng được ban hành. Thứ nhất, về chính sách tài chính, (i) Thực hiện miễn thuế và thu ngân sách: Việt Nam đã thực hiện miễn thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng vật tư và thiết bị y tế phục vụ phòng chống dịch Covid-19, vật tư, nguyên liệu đầu vào của các doanh nghiệp da giầy, dệt may, nông nghiệp, cơ khí, công nghiệp phụ trợ, công nghiệp ô tô. Miễn lệ phí môn bài đối với hộ gia đình, cá nhân, nhóm cá nhân lần đầu tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh trong năm đầu; cá nhân, nhóm cá nhân, hộ gia đình hoạt động sản xuất, kinh doanh có doanh thu hàng năm từ 100 triệu đồng trở xuống. Miễn thuế (thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng và các loại thuế khác) trong quý III và quý IV của năm 2021 đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có hoạt động sản xuất, kinh doanh tại các địa bàn cấp huyện chịu tác động của dịch Covid-19 trong năm 2021. Thực hiện miễn tiền chậm nộp phát sinh trong các năm 2020, 2021 của các khoản nợ tiền thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với các doanh nghiệp, tổ chức phát sinh lỗ trong năm 2020. (ii) Giảm thuế và các khoản thu ngân sách: Giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2020 đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp và tổ chức khác có tổng doanh thu chịu thuế năm 2020 không quá 200 tỷ đồng; tiếp tục giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2021 đối với doanh nghiệp, tổ chức có doanh thu không quá 200 tỷ đồng và doanh thu năm 2021 giảm so với năm 2019. Giảm 30% mức thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu bay áp dụng đến hết năm 2020. (iii) Thực hiện gia hạn thời hạn nộp thuế và các khoản thu ngân sách: Đối với các doanh nghiệp và hộ kinh doanh thực hiện gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất; giãn thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô sản xuất hoặc lắp ráp trong nước tới hết năm 2020. Gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất cho đối tượng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 được Chính phủ ban hành theo Nghị định số 41/2020/NĐ-CP ngày 8/4/2020. (iv) Giảm 15% tiền thuê đất phải nộp của năm 2020 đối với doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang được Nhà nước cho thuê đất trực tiếp. Thực hiện giảm mức thuế giá trị gia tăng đối với một số nhóm hàng hóa, dịch vụ trong các ngành nghề, tổ chức phát sinh lỗ trong năm 2020. (v) Cắt giảm một số khoản phí và lệ phí như: giảm 70% mức thu lệ phí đăng ký doanh nghiệp; giảm 67% mức phí công bố thông tin doanh nghiệp; giảm từ 50 - 70% phí thẩm định cấp sửa đổi, bổ sung giấy phép hoạt động bưu chính; giảm 50% lệ phí trước bạ đối với ô tô sản xuất hoặc lắp ráp trong nước tới hết năm 2020…
Thứ hai, về chính sách tiền tệ, đã triển khai cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Bên cạnh đó, ngân hàng tiết giảm chi phí nội bộ, đơn giản thủ tục, thực hiện giảm 2% lãi suất cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa từ. Đồng thời hỗ trợ thanh khoản cho các tổ chức tín dụng, tạo điều kiện để các tổ chức này tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng với chi phí thấp hơn.
Thứ ba, ban hành các chính sách hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp cho doanh nghiệp thông qua hỗ trợ người lao động: Triển khai thực hiện cho vay tiền để trả lương ngừng việc cho người lao động; thực hiện giảm mức đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất; hỗ trợ đào tạo duy trì việc làm cho người lao động; hỗ trợ người lao động tạm hoãn hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương; hỗ trợ người lao động ngừng việc, chấp dứt hợp đồng và lùi thời điểm đóng kinh phí công đoàn…
Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sau đại dịch được triển khai khá đồng bộ. Chính phủ ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 30/1/2022 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội tập trung trong 2 năm 2022-2023. Các chính sách tập trung: (i) Thúc đẩy mở cửa nền kinh tế gắn với đầu tư nâng cao năng lực y tế, phòng, chống dịch bệnh; (ii) Thực hiện bảo đảm an sinh xã hội, hỗ trợ việc làm như hỗ trợ tiền thuê nhà, tạo và duy trì việc làm cho người lao động, cho vay mua nhà; thực hiện chính sách cho vay ưu đãi qua Ngân hàng Chính sách xã hội… (iii) Thực hiện miễn, giảm thuế, phí, lệ phí, gia hạn thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt và tiền thuê đất trong năm 2022. Tiếp tục thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi vay và giữ nguyên nhóm nợ đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. (iv) Tập trung vốn cho đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là các dự án quan trọng như cao tốc Bắc- Nam, các tuyến kết nối vùng, miền… Tăng chi đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách nhà nước tối đa 176 nghìn tỷ đồng, tập trung trong hai năm 2022 và 2023, bao gồm các lĩnh vực: y tế; an sinh xã hội, lao động, việc làm; hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh; đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. (v) Tiếp tục cải cách thể chế, cải cách, đơn giản hoá thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh đoanh; sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ phối hợp với chính sách tài khoá và các chính sách kinh tế vĩ mô khác hỗ trợ tích cực cho quá trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
Tháng 4/2023 Chính phủ ban hành Nghị quyết 58/NQ-CP, đưa ra các giải pháp trọng tâm để hỗ trợ doanh nghiệp chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững đến năm 2025. Về nhóm các giải pháp chính sách ngắn hạn như: Khẩn trương tháo gỡ các vướng mắc, rào cản về pháp lý nhằm khơi thông nguồn lực; Hỗ trợ giảm chi phí cho doanh nghiệp, tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi, nguồn lực hỗ trợ của nhà nước; Khắc phục đứt gãy chuỗi cung ứng, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, mở rộng thị trường trong nước; Tập trung hỗ trợ doanh nghiệp tạo cơ hội, ổn định việc làm cho người lao động; đẩy mạnh triển khai chính sách, giải pháp hỗ trợ người lao động, đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho người lao động. Và nhóm các giải pháp chính sách trong trung và dài hạn như: Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, cắt giảm, đơn giản hóa các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh; Thúc đẩy chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp; Hỗ trợ tái cơ cấu lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đổi mới sáng tạo và cách mạng công nghiệp 4.0; Tăng cường hiệu quả triển khai các chính sách và nguồn lực hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, chủ động hội nhập quốc tế, nắm bắt và đón đầu các xu hướng kinh doanh mới, xu hướng thị trường mới. Có thể thấy đây là hệ thống giải pháp chính sách khá đồng bộ để hỗ trợ các doanh nghiệp.
2. Có thể thấy trong gần 40 năm đổi mới, Việt Nam luôn quan tâm, tạo điều kiện hỗ trợ doanh nghiệp, từ việc hoàn thiện thể chế phát triển, triển khai các chính sách hỗ trợ như: chính sách cơ cấu, chính sách tài chính - tiền tệ, chính sách hoàn thiện kết cấu hạ tầng và phát triển thị trường… Trong mỗi giai đoạn việc triển khai các chính sách có trọng tâm khác nhau gắn liền với bối cảnh phát triển và thực lực doanh nghiệp. Với các chính sách đó đã thực sự hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam phát triển cả về quy mô và hiệu quả, kéo theo là gia tăng việc làm, mở rộng ngân sách và cải thiện đời sống người lao động.
Tuy nhiên, cần thấy là, tuy các chính sách hỗ trợ triển khai kịp thời nhưng hiệu quả chưa thực sự cao. Khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng vẫn là một thách thức. Theo kết quả khảo sát doanh nghiệp năm 2022, có khoảng 55,6% doanh nghiệp phản ánh khó tiếp cận tín dụng, tăng liên tục từ con số 34,8% của năm 2019, 40,7% của năm 2020 và 46,9% của năm 2021. Tổng kết 5 năm triển khai Nghị quyết số 35 của Chính phủ về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp đến 2020, có đến 50% mục tiêu của Nghị quyết đề ra không đạt được. Cùng với đó, vấn đề thị trường, thủ tục hành chính và pháp lý vẫn là thách thức với doanh nghiệp. Để doanh nghiệp tiếp tục phát triển hướng đến có 1,5 triệu doanh nghiệp vào năm 2025 cần có những chính sách thúc đẩy, hỗ trợ doanh nghiệp. Từ thực tiễn phát triển những năm qua, xin nêu đề xuất khuyến nghị sau:
Thứ nhất, tập trung hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận và triển khai các chính sách hỗ trợ đã được Nhà nước thông qua. Thực tế việc triển khai thực hiện vẫn là khâu yếu. Do vậy, cùng với việc hoàn thiện thể chế, nhất là thể chế hành chính, cần đổi mới tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật, công vụ; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, nâng cao đạo đức công vụ, giảm thiểu các rào cản pháp lý, cần phân giao trách nhiệm, thời hạn cụ thể, có chế tài nghiêm nếu không thực hiện.
Thứ hai, cần có tư duy mới trong hỗ trợ doanh nghiệp. Bên cạnh các hỗ trợ về cơ chế chính sách, thậm chí cả nguồn lực, cần định hướng cho các doanh nghiệp trong thực hiện phát triển bền vững. Đi liền với khôi phục sản xuất là nâng cao năng lực phản ứng và chống chịu trước các cú sốc của thị trường. Muốn vậy, doanh nghiệp phải tăng cường đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong sản xuất kinh doanh, đặc biệt các công nghệ lõi có tính tiên phong. Chủ động đổi mới tư duy kinh doanh, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, xây dựng hệ thống quản trị hiện đại và nâng cao năng lực quản trị, năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ; chuẩn hóa sản xuất kinh doanh để đáp ứng các yêu cầu, tiêu chí của các thị trường quốc tế.
Thứ ba, triển khai các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp cần linh hoạt bám sát biến động thị trường, kịp thời điều chỉnh khi môi trường kinh doanh thay đổi. Trọng tâm hỗ trợ doanh nghiệp hiện nay là thúc đẩy nhanh việc tìm thị trường nguyên liệu/thị trường tiêu thụ mới cho doanh nghiệp ngoài thị trường tiềm năng. Tiếp tục đẩy mạnh các cuộc vận động kích cầu, tiêu dùng trong nước một cách thực chất hơn, hiệu quả hơn, giảm thiểu khâu trung gian, tăng cường kết nối các hiệp hội doanh nghiệp, ngành hàng...qua đó mở rộng thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp.
Thứ tư, cần bảo đảm tính hợp lý, cân đối và đồng bộ trong các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp cả trên khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường nhằm khôi phục phát triển sản xuất gắn liền với bảo đảm an sinh xã hội. Đồng thời cần có những điều chỉnh cả trong ngắn hạn và dài hạn theo hướng xây dựng các chính sách trên nguyên tắc can thiệp có mục tiêu gắn theo lộ trình áp dụng và bối cảnh thị trường; ưu tiên hỗ trợ các nhóm ngành trong các lĩnh vực tạo bệ đỡ kinh tế, có ảnh hưởng lớn đến các ngành khác.
Thứ năm, cần khuyến khích và hỗ trợ các hộ kinh doanh chuyển đổi sang doanh nghiệp; tăng cường các chính sách hỗ trợ tài chính, đầu tư cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp trong ngành công nghệ cao và các doanh nghiệp nhỏ và vừa;
Thứ sáu, đi liền với sự chủ động và linh hoạt của Chính phủ trong nắm bắt thực tế, điều chỉnh nhanh chóng các văn bản quy định về các biện pháp hỗ trợ, rất cần sự tham gia tích cực và chủ động từ cơ quan quản lý các cấp ở Trung ương và địa phương cũng như sự năng động, quyết tâm khôi phục đổi mới của doanh nghiệp, sự tham gia, đồng thuận của người dân và các tổ chức chính trị-xã hội. Nói cách khác, cần có sự phối hợp cả nhà nước, thị trường/doanh nghiệp và người dân trong triển khai thực thi các chính sách. Sự đồng lòng, vào cuộc của cả hệ thống chính trị sẽ là nguồn lực và động lực cho thực thi tốt các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khôi phục, phát triển sản xuất.
PGS.TS. Vũ Văn Hà
Thư ký khoa học HĐLLTƯ
Tài liệu tham khảo:
Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
Đặng Quyết Tiến (2020), "Cải cách chính sách tài chính, thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2021 - 2030", Tạp chí Tài chính Kỳ 1+2/2020.
VCCI (2020), Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam 2019 - 2020, chủ đề: "Đổi mới mô hình kinh doanh trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư";
Vũ Văn Hà (10/2020), Thực trạng phát triển doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua, in trong Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Đổi mới cơ chế, chính sách để thúc đẩy DNNN phát triển bền vững".
Châu Thanh, (2022), Tổng hợp chế độ, chính sách hỗ trợ, khắc phục khó khăn do COVID-19, Thư viện pháp luật, tháng 1/2022.
Nghị quyết 58/NQ-CP, ngày 21/4/2023 về một số chính sách, giải pháp trọng tâm hỗ trợ doanh nghiệp chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững đến năm 2025
[1] Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam (1988), Pháp lệnh về sở hữu công nghiệp (1989), Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (1989), Pháp lệnh về thừa kế (1990), Pháp lệnh về Hợp đồng dân sự (1991), Pháp lệnh về nhà ở (1991), Luật doanh nghiệp và Luật Công ty (1990)…
[2] Luật Doanh nghiệp (2000), Luật Đất đai (2003), Luật Hợp tác xã (2003) Luật Đầu tư (2005), Luật Doanh nghiệp (2005), Luật Thương mại (2005), Luật Cạnh tranh (2004), Bộ luật Dân sự (2005), Luật Bảo vệ môi trường (2005), Luật Doanh nghiệp (2014)…
[4] Chính phủ đã ban hành: Quyết định số 585/2008/QĐ-TTg ngày 05/5/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp giai đoạn năm 2010-2014; Nghị định số 118/2014/NĐ-CP ngày 17/12/2014 của Chính phủ về sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp; Quyết định số 09/2015/QĐ-TTg ngày 23/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy chế thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông; Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/ 2015 của Chính phủ về Chính phủ điện tử; Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 04/02/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016 – 2020; Nghị quyết 35/NQ-CP (2016) về hỗ trợ doanh nghiệp đến năm 2020; Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (2017); Chỉ thị 20/CT-TTg (2017) nhằm chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp; Nghị định số 39/2018/NĐ-CP, ngày 11/3/2018 quy định chi tiết một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; Các nghị quyết số 19 hàng năm (Nghị quyết về môi trường kinh doanh được lấy số 02 (năm 2019) thay cho tên nghị quyết 19 được Chính phủ ban hành liên tục từ năm 2014 để cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia…