Sign In

Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay

21:03 14/02/2024


 

Quân đội là một hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp, mang bản chất giai cấp sâu sắc. Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định bản chất quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của giai cấp đã tổ chức, nuôi dưỡng, giáo dục, rèn luyện và sử dụng nó. Mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội là phục vụ cho mục tiêu, lý tưởng của giai cấp đã tổ chức ra nó. Theo đó, quân đội của các giai cấp và nhà nước thống trị, bóc lột trong lịch sử bao giờ cũng là công cụ bạo lực vũ trang để tiến hành chiến tranh và đàn áp nhân dân lao động. Trước khi các nước xã hội chủ nghĩa ra đời, các kiểu quân đội trước đây đều là quân đội của các giai cấp bóc lột, chiến đấu bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, bóc lột như: quân đội của nhà nước chủ nô, quân đội của nhà nước phong kiến và quân đội của nhà nước tư sản. V.I.Lênin chỉ rõ: “Không phải chỉ dưới chính thể quân chủ, quân đội mới là công cụ đàn áp. Nó vẫn là công cụ đàn áp trong tất cả các chính thể cộng hòa tư sản, kể cả những chính thể cộng hòa dân chủ nhất"1.

 

Sau Cách mạng Tháng Mười Nga 1917, với sự ra đời của Nhà nước xã hội chủ nghĩa tất yếu đưa tới sự ra đời một quân đội kiểu mới - quân đội xã hội chủ nghĩa, hay còn gọi là quân đội của giai cấp công nhân. Đây là kiểu quân đội mà bản chất xã hội, chức năng, các đặc trưng chính trị - xã hội của nó hoàn toàn khác về bản chất so với các kiểu quân đội khác trong lịch sử. Quân đội của giai cấp công nhân ra đời gắn với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa; đáp ứng yêu cầu tất yếu phải bảo vệ các thành quả của sự nghiệp cách mạng bằng sức mạnh của bạo lực vũ trang. Về bản chất, quân đội xã hội chủ nghĩa là công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu của giai cấp công nhân và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Quân đội xã hội chủ nghĩa bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, kiên quyết đánh bại mọi hành động xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, các thế lực phản động quốc tế và các hành động phá hoại của các thế lực thù địch trong nước; bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng và chế độ xã hội chủ nghĩa; sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả vì lợi ích của giai cấp công nhân và phong trào cách mạng thế giới.

 

Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, quân đội xã hội chủ nghĩa ra đời gắn với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa; đáp ứng yêu cầu tất yếu phải bảo vệ các thành quả của sự nghiệp cách mạng bằng sức mạnh của bạo lực vũ trang. Để giành chính quyền và bảo vệ thành quả cách mạng, quân đội xã hội chủ nghĩa phải được xây dựng vững mạnh cả về chính trị - tinh thần, tư tưởng, tổ chức, kỷ luật, vũ khí, trang bị kỹ thuật, khoa học… và phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

 

Về chính trị - tinh thần, tư tưởng: Theo V.I. Lênin, vấn đề cơ bản, cốt yếu nhất trong xây dựng quân đội về chính trị là xây dựng bản chất giai cấp công nhân của quân đội. Thực chất của quá trình xây dựng quân đội về chính trị là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, bảo đảm quân đội luôn trung thành tuyệt đối với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Do đó, V.I. Lênin cho rằng, nguyên tắc quan trọng nhất và cội nguồn chủ yếu của sức mạnh quân đội xã hội chủ nghĩa là sự lãnh đạo của đảng cộng sản đối với quân đội. Sự lãnh đạo đó thể hiện toàn diện như: Xác định mục tiêu, lý tưởng, nhiệm vụ cho quân đội, phương hướng, biện pháp để củng cố và tăng cường sức mạnh chiến đấu cho quân đội. Các tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy… đội ngũ cán bộ trong quân đội có nhiệm vụ quán triệt và thực hiện đường lối chính trị, chính sách của đảng. V.I. Lênin chỉ rõ: “ở đâu mà chính sách của đảng được thi hành nghiêm chỉnh nhất…; ở đấy thu được nhiều thắng lợi hơn”2. Vạch trần quan điểm “phi chính trị hóa” Quân đội của các học giả tư sản, V.I. Lênin khẳng định: “Quân đội không thể và không nên trung lập. Không lôi kéo quân đội vào chính trị, đó là khẩu hiệu của bọn tôi tớ, giả nhân, giả nghĩa của giai cấp tư sản…”3.

 

Về nhân tố tinh thần, V.I. Lênin nhấn mạnh: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường. Lòng tin vào cuộc chiến tranh chính nghĩa, sự giác ngộ rằng, cần phải hy sinh đời mình cho hạnh phúc của những ngư­ời anh em là yếu tố nâng cao tinh thần của binh sĩ và làm cho họ chịu đựng được những khó khăn ch­ưa từng thấy”4. V.I. Lênin chỉ rõ sự phụ thuộc của nhân tố tinh thần vào hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội: “ở đâu mà công tác chính trị trong quân đội, công tác của các chính ủy làm được chu đáo nhất, thì ở đấy… tinh thần của họ cũng cao hơn”5. Theo V.I. Lênin, giai cấp công nhân và nhà nước xã hội chủ nghĩa quyết định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu và nguyên tắc tổ chức, cơ chế lãnh đạo đối với quân đội. Hệ tư tưởng của giai cấp công nhân giữ vị trí thống trị đối với quân đội xã hội chủ nghĩa là cơ sở của sức mạnh chính trị và chi phối đến đời sống tinh thần của quân nhân trong quân đội.

 

Về sức mạnh chiến đấu của quân đội: Theo V.I. Lênin, trong chiến tranh, con người là nhân tố quyết định thắng lợi. Song, nhân tố con người phải gắn với vũ khí, trang bị kỹ thuật. Nhân tố tinh thần chỉ có thể phát huy được tác dụng khi dựa trên một cơ sở vật chất nhất định. Tinh thần của quân đội dù cao đến đâu cũng không thể là nhân tố duy nhất bảo đảm thắng lợi trên chiến trường. Bởi vì: “Một đội quân giỏi nhất, những người trung thành nhất với sự nghiệp cách mạng cũng đều sẽ lập tức bị kẻ thù tiêu diệt, nếu họ không được vũ trang, tiếp tế lương thực và huấn luyện đầy đủ”6. V.I. Lênin chỉ ra yếu tố khoa học tác động rất lớn tới các yếu tố cấu thành của sức mạnh chiến đấu của quân đội, đến sự vận động, phát triển sức mạnh chiến đấu của Quân đội: “Không có khoa học thì không thể xây dựng được quân đội hiện đại”7.

 

Về tổ chức, kỷ luật quân đội: Ph. Ăngghen đã nói tới các binh chủng, đến trang bị của quân đội, đến việc huấn luyện, giáo dục quân đội, đến vai trò của sức mạnh tinh thần và kỷ luật sắt của quân đội. V.I. Lênin đã phân tích vai trò to lớn của kỷ luật quân đội, Người yêu cầu quân đội phải có kỷ luật chặt chẽ, nghiêm minh, thống nhất cao về ý chí và hành động để tạo nên sức mạnh. Bởi vì, “ở đâu mà kỷ luật giữ được vững nhất… ở đấy không hề có tình trạng lỏng lẻo trong quân đội, quân đội giữ gìn được trật tự tốt hơn, và tinh thần của họ cũng cao hơn; ở đấy thu được nhiều thắng lợi hơn”8. Người coi việc xây dựng kỷ luật quân sự tự giác, vững chắc và xây dựng quân đội có sức chiến đấu cao là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của công tác Đảng, công tác chính trị trong quân đội.

 

Nắm vững quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng quân đội là cơ sở lý luận đề Đảng, Nhà nước ta đề ra phương hướng, tổ chức, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn diện. Trong tình hình hiện nay, việc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam “tinh, gọn, mạnh”, tiến lên hiện đại cần quán triệt sâu sắc, thực hiện có hiệu quả những nội dung cơ bản sau:

 

Một là, quán triệt và thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, nghị quyết của Bộ Chính trị, nghị quyết của Quân ủy Trung ương về xây dựng quân đội “tinh, gọn, mạnh”,.

 

Để làm tốt vấn đề này, trước hết, cần tập trung quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 05-NQ/TƯ ngày 17-1-2022 của Bộ Chính trị, về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo; Nghị quyết số 230-NQ/QUTƯ ngày 2-4-2022 của Quân ủy Trung ương, về lãnh đạo thực hiện tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo; Nghị quyết số 15-NQ/TƯ ngày 01-8-2018 của Bộ Chính trị từng bước đáp ứng yêu cầu về vũ khí, trang bị trong bộ tiêu chí xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện đại trong tình hình mới. Tập trung thực hiện hiệu quả chủ đề “Năm điều chỉnh tổ chức lực lượng” đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”, theo kế hoạch của Bộ Quốc phòng; bảo đảm giữ vững ổn định, nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội. Đẩy mạnh nghiên cứu, xây dựng Đề án danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy trong Quân đội nhân dân Việt Nam theo Kết luận số 35-KL/TƯ ngày 05-5-2022 của Bộ Chính trị. Trên cơ sở đó, từng cấp chủ động xây dựng kế hoạch tổng thể, phương pháp tiến hành chặt chẽ, khoa học, với lộ trình, bước đi cụ thể, điều chỉnh tổ chức, quân số của từng khối phù hợp với đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, khả năng bảo đảm vũ khí, trang bị, giữ vững và phát huy truyền thống quân đội, nghệ thuật quân sự Việt Nam. Xây dựng, điều chỉnh tổ chức quân đội theo hướng “tinh, gọn, mạnh”, có cơ cấu đồng bộ, hợp lý giữa các thành phần, lực lượng; giảm đầu mối trung gian và đơn vị phục vụ, bảo đảm. Tiếp tục tổ chức một số đơn vị dự bị chiến lược theo quyết tâm bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp, bảo đảm Quân đội có đủ khả năng làm nòng cốt cùng toàn dân hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.

 

Tổ chức quán triệt sâu sắc nghị quyết của Bộ Chính trị, nghị quyết của Quân ủy Trung ương và kế hoạch của Bộ Quốc phòng về điều chỉnh tổ chức lực lượng đến các đối tượng, bảo đảm chặt chẽ, đúng quy định, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ ở từng cấp. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các cơ quan, đơn vị trong toàn quân, của cả hệ thống chính trị, thống nhất nhận thức và nâng cao trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong tổ chức thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, tiến lên hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với Nhà nước và Nhân dân, có sức mạnh tổng hợp, sức chiến đấu ngày càng cao, thực sự là lực lượng nòng cốt bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.

 

Quá trình điều chỉnh tổ chức Quân đội phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, mà thường xuyên, trực tiếp là Bộ Chính trị và sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước; sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy các cấp. Biện pháp thực hiện phải toàn diện, đồng bộ, phù hợp với thực tế; kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng với công tác tổ chức và công tác chính sách, tuyệt đối không được chủ quan, nóng vội, đơn giản một chiều hay hành chính hóa.

 

Hai là, kiên định nguyên tắc xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị.

 

Quán triệt sâu sắc, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng quân đội; theo đó, xây dựng quân đội phải toàn diện, bao gồm tất cả các lĩnh vực quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật và trên mọi nhiệm vụ chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, lao động sản xuất và công tác. Trong đó, phải đặc biệt quan tâm xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị.

Việc xây dựng quân đội “tinh, gọn, mạnh” phải bảo đảm gọn về tổ chức, nâng cao chất lượng về mọi mặt, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội. Chăm lo xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh, “mẫu mực, tiêu biểu” cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng, tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong toàn quân. Cấp ủy, chỉ huy các cấp tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, định hướng tư tưởng, làm cho cán bộ, chiến sĩ luôn vững vàng, kiên định lập trường, mục tiêu, lý tưởng, nhận thức sâu sắc tình hình nhiệm vụ, thấy được hết thuận lợi, khó khăn, xác định rõ trách nhiệm và quyết tâm hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ. Tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân đội... Tích cực, chủ động đi đầu trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Kiên quyết, kiên trì thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các chủ trương, quy định của Trung ương, của Quân ủy Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, về những điều đảng viên không được làm, về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới, với các mô hình, cách làm sáng tạo, phù hợp.

 

Ba là, thường xuyên rà soát, kiện toàn tổ chức, biên chế, trang bị của từng cơ quan, đơn vị, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

 

Trên cơ sở biểu tổ chức biên chế mới, các cơ quan, đơn vị phải thường xuyên rà soát, điều chỉnh, kiện toàn tổ chức cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ. Hiện nay, trong điều kiện nước ta phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đặt ra ngày càng cao, cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư tác động ngày càng sâu sắc tới tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực quốc phòng, an ninh, thì việc kiện toàn tổ chức, biên chế của các cơ quan, đơn vị nói riêng, điều chỉnh tổ chức lực lượng quân đội nói chung là yêu cầu khách quan, cấp thiết, góp phần xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”,, tiến lên hiện đại.

 

Trước yêu cầu đó, từng cấp cần chủ động làm tốt việc rà soát, điều chỉnh, kiện toàn tổ chức, biên chế, bảo đảm trang bị phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện có và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong điều kiện mới. Trước hết, triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo. Đối với khối cơ quan cấp chiến dịch, chiến lược, tập trung rà soát, điều chỉnh tổ chức, biên chế theo hướng giảm đầu mối trung gian và quân số phục vụ, bảo đảm; bổ sung chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, khắc phục sự chồng chéo để tăng cường quân số cho các đơn vị thành lập mới, đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo. Đối với khối đơn vị chiến đấu, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị để điều chỉnh tổ chức theo hướng tăng cường sức mạnh chiến đấu, khả năng cơ động. Sắp xếp lại các nhà máy sản xuất, cơ sở sản xuất quốc phòng và điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, biên chế các nhà trường quân đội phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ. Quá trình rà soát, điều chỉnh phải bảo đảm tính khách quan, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, trên cơ sở yêu cầu, nhiệm vụ của từng loại hình cơ quan, đơn vị và lực lượng. Qua đó, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về tổ chức, biên chế, trang bị của quân đội, với cơ cấu hợp lý, số lượng phù hợp, chất lượng ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

 

Bốn là, quán triệt sâu sắc, giải quyết tốt mối quan hệ giữa con người và vũ khí, thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao; gắn xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh” với đổi mới công tác huấn luyện - đào tạo.

 

Việc xây dựng nguồn nhân lực, trực tiếp là nguồn nhân lực chất lượng cao cần được chú trọng và xem như một yếu tố có ý nghĩa quyết định trong xây dựng quân đội “tinh, gọn, mạnh”, tiến lên hiện đại. Việc xây dựng nguồn nhân lực cần chú trọng cả về số lượng và chất lượng theo lộ trình hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật của các quân chủng, binh chủng, lực lượng. Cần có sự đột phá trong đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học quân sự, các chuyên gia đầu ngành, đội ngũ nhà giáo ở các học viện, nhà trường quân đội; quan tâm phát triển đội ngũ cán bộ quân sự, chính trị chất lượng cao; xây dựng đội ngũ cán bộ hậu cần, kỹ thuật có trình độ, năng lực chuyên môn sâu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Các cơ quan, đơn vị cần có quy hoạch, kế hoạch xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao bảo đảm nhu cầu sử dụng cả trước mắt và lâu dài; xây dựng tiêu chí nguồn nhân lực làm cơ sở xem xét, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ một cách chính xác.

 

Cùng với đó, phải đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện - đào tạo ở các nhà trường quân đội, tạo nguồn cán bộ các cấp có đủ phẩm chất cách mạng, tư duy, năng lực chuyên môn, trình độ chỉ huy, quản lý... theo chức trách. Xây dựng nhà trường, viện nghiên cứu “tinh, gọn, mạnh”, hiện đại; gắn đào tạo ở nhà trường với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở đơn vị; gắn nhà trường với chiến trường; gắn lý luận với thực tiễn; gắn trách nhiệm của cấp ủy, người chỉ huy với kết quả huấn luyện của đơn vị. Trong đó, việc tổ chức huấn luyện phải chặt chẽ, linh hoạt, đúng phương châm, quan điểm, nguyên tắc, các mối kết hợp; chú trọng truyền thụ kinh nghiệm thực tiễn, nâng cao năng lực thực hành, làm chủ vũ khí, trang bị, khí tài mới, hiện đại, sức cơ động và khả năng tác chiến trong điều kiện mới cho các đối tượng; tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ mô phỏng, các phương tiện kỹ thuật hiện đại trong huấn luyện bộ đội. Trước mắt, cần tập trung nâng cao chất lượng các cuộc diễn tập, hội thao, hội thi; ban hành, triển khai thực hiện chiến lược và các đề án phát triển giáo dục - đào tạo trong quân đội theo phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”, góp phần xây dựng quân đội “tinh, gọn, mạnh”, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

 

Năm là, tập trung xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật.

 

Để đáp ứng mục tiêu, yêu cầu xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”, tiến lên hiện đại, Đại hội XIII của Đảng xác định: Phát triển nền công nghiệp quốc phòng hiện đại, lưỡng dụng, vừa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, vừa góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng và củng cố các tuyến phòng thủ biên giới, biển, đảo; Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TƯ ngày 26-01-2022 về đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo. Theo đó, trong thời gian tới, cần tiếp tục xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng tự chủ, tự cường, hiện đại và lưỡng dụng, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, đạt trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại; có quy mô tổ chức, cơ chế quản lý và hoạt động phù hợp; phát huy tốt vai trò, trách nhiệm và sự tham gia tích cực, có hiệu quả của các thành phần kinh tế, góp phần nâng cao tiềm lực, sức mạnh quân sự, quốc phòng của đất nước. Gắn phát triển công nghiệp quốc phòng với công nghiệp quốc gia, có cơ cấu hợp lý trong tổng thể nền công nghiệp quốc gia, ưu tiên hướng tới những công nghệ hiện đại, có hiệu quả cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang nhân dân.

 

Để đạt được mục tiêu đề ra, cần sớm hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp quốc phòng dài hạn, trung hạn, phù hợp với điều kiện mới. Ưu tiên phát triển các ngành, sản phẩm công nghiệp cơ bản, có tính lưỡng dụng cao. Đầu tư xây dựng có trọng điểm một số cơ sở công nghiệp quốc phòng có công nghệ tiên tiến, hiện đại, tiến tới hình thành các tập đoàn, tổ hợp công nghiệp quốc phòng lưỡng dụng, công nghệ cao, có nhiệm vụ nghiên cứu, sản xuất và bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự. Trước mắt, tập trung xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng với quy mô, tổ chức, cơ chế quản lý phù hợp, phát huy vai trò, trách nhiệm tự chủ của các cơ sở công nghiệp quốc phòng. Kiện toàn tổ chức ngành kỹ thuật theo hướng “tinh, gọn, mạnh”, thống nhất, phù hợp với tính năng công nghệ của vũ khí, trang bị kỹ thuật và nhiệm vụ của từng cấp; bảo đảm công tác quản lý, chỉ huy, chỉ đạo thông suốt, không chồng chéo. Đổi mới phương thức bảo đảm kỹ thuật đối với vũ khí, trang bị kỹ thuật thế hệ mới, công nghệ cao theo hướng tập trung, thống nhất; đổi mới tư duy sản xuất vật tư kỹ thuật theo hướng mở rộng liên doanh, liên kết, xã hội hóa... Tiếp tục nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng nhằm tận dụng, huy động các nguồn lực từ bên ngoài phục vụ sự nghiệp hiện đại hóa quân đội. Theo đó, cùng với đẩy mạnh hợp tác trên các lĩnh vực, cần thúc đẩy hợp tác trong phát triển công nghiệp quốc phòng, kỹ thuật quân sự, kết hợp với mua sắm vũ khí, khí tài mới, hiện đại và gắn với chuyển giao công nghệ, nhất là các công nghệ mới, hiện đại.

 

Xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”, tiến lên hiện đại là chủ trương đúng đắn, nhất quán của Đảng, Nhà nước. Thực hiện chủ trương này sẽ bảo đảm cho Quân đội có đủ sức mạnh, hoàn thành tốt vai trò là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị, nhưng trước hết và chủ yếu là của cấp ủy, chỉ huy các cấp cùng cán bộ và chiến sĩ toàn quân.

 

PGS,TSPHAN TRỌNG HÀO

Thư ký khoa học chuyên trách Hội đồng Lý luận Trung ương

 

 

1. V.I. Lênin Toàn tập, tập 37, Nxb CTQG, Hà Nội, 2005, tr. 610.

2. Sđd, tập 39, tr. 65-66.

3. Sđd, tập 12, tr. 136.

4. Sđd, tập41, tr. 147.

5. Sđd, tập39, tr. 66.

6. Sđd, tập 35, tr. 497.

7. Sđd, tập 40, tr. 210.

8. Sđd, tập 39, tr. 66.

Tag:

File đính kèm