1. Phong cách gắn lý luận với thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Phong cách có thể hiểu đó là những đặc điểm riêng biệt tạo nên giá trị tốt đẹp về lề lối, cách thức, phong thái, phẩm cách… toát lên từ mọi hoạt động của một con người nhất định. Một người có phong cách mang những giá trị tốt đẹp sẽ có sức “lan tỏa” sâu sắc trong xã hội, không chỉ phản ánh phong cách riêng biệt của cá nhân mà còn là biểu hiện chung về thế giới quan, nhân sinh quan, hệ tư tưởng… của cả lớp người trong xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển. Đối với phong cách Hồ Chí Minh, Đảng khẳng định: “Phong cách Hồ Chí Minh phản ánh những giá trị cốt lõi trong tư tưởng, đạo đức của Người và được thể hiện vô cùng sinh động, tự nhiên, độc đáo, có sức thu hút, cảm hóa kỳ diệu trong hoạt động, ứng xử hằng ngày. Đó là: phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, luôn gắn chặt lý luận với thực tiễn…”[1]. Phong cách gắn lý luận với thực tiễn là một bộ phận cấu thành chỉnh thể nhất quán trong phong cách Hồ Chí Minh, được biểu hiện rõ nét từ trong tư duy đến thực tiễn mọi hoạt động cách mạng của Người.
Trước hết, phong cách gắn lý luận với thực tiễn là nguyên tắc căn bản trong tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm không ngừng phát triển lý luận và từng bước biến đổi thực tiễn. Sinh thời, Ph. Ăng-ghen từng nhắc nhở “lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”[2]. Kế thừa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin và luôn đặt dưới “con mắt” phát triển không ngừng bằng tư duy độc lập, sáng tạo, Người đã phát triển và làm rõ những vấn đề liên quan giữa lý luận và thực tiễn. Theo Người “lý luận là sự tổng kết kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những trí thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”[3] nhưng không phải cứ có kinh nghiệm là có lý luận mà phải “đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc đấu tranh, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận, rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính”[4]. Còn thực tiễn là toàn bộ những hoạt động có tính lịch sử-xã hội của con người “là các vấn đề cần mình phải giải quyết, là mẫu thuẫn của sự vật. Chúng ta là những người cán bộ cách mạng, thực tế của chúng ta là những vấn đề mà cách mạng đề ra cho ta phải giải quyết”[5]. Từ quan niệm của Bác, có thể hiểu, lý luận được hình thành trên cơ sở thực tiễn, tổng kết thực tiễn và luôn được bổ sung, hoàn thiện từ việc lấy thực tiễn làm thước đo, không ngừng nhìn nhận, đánh giá và tổng kết thực tiễn. Đồng thời thực tiễn đúng đắn phải được chỉ đạo, dẫn dắt, soi đường bởi một lý luận khoa học, nếu không đó là thực tiễn mù quáng, mất phương hướng. Vì vậy, Người chỉ rõ: “lý luận phải liên hệ với thực tế. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”[6].
Với nguyên tắc căn bản từ tư duy đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình tìm đường cứu nước cũng như xây dựng lý luận cách mạng Việt Nam, Người luôn dựa trên “thực tiễn Việt Nam” với khát vọng cao cả là “độc lập cho dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân”, từ đó Người đã kế thừa, phát triển, vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, kinh nghiệm cha ông từ lịch sử và liên tục nhìn nhận, đánh giá xu thế vận động của thực tiễn thời đại để xây dựng và hoàn thiện đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp, từng bước giải quyết những vấn đề cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử nhất định vừa có tầm nhìn, định hướng lâu dài để dẫn dắt thực tiễn cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Sinh ra trong bối cảnh đất nước bị lầm than, nô lệ, các phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc liên tiếp nổ ra, những lãnh tụ yêu nước đứng lên lãnh đạo với nhiều “tư tưởng” khác nhau, tuy nhiên đều thất bại, bế tắc. Với “tư chất đặc biệt”, Người nhìn thấy được hạn chế của những phong trào đó, khâm phục lòng yêu nước của các lãnh tụ nhưng không “đồng nhất” với những cách thức cứu nước như vậy. Vì thế, năm 1911, khi bắt đầu sự nghiệp cách mạng, chính sự “băn khoăn” đằng sau những từ ngữ tốt đẹp “tự do, bình đẳng, bác ái” đó là như thế nào, đã thôi thúc Người xâm nhập thực tiễn, nghiên cứu, tìm hiểu “sự thật” ở các nước phương Tây, nơi tạo ra những từ ngữ ấy với hi vọng mang những giá trị đó về hiện thực hóa ở dân tộc mình. Trải qua một chặng đường dài với nhãn quan sắc bén về thực tiễn Người đã nhận thấy những “sự thật đằng sau” và những điều đó không phù hợp với Việt Nam. Khi bắt gặp Chủ nghĩa Mác-Lênin và ánh sáng Cách mạng tháng Mười Nga, Người đã nghiên cứu sâu, liên hệ với thực tiễn Việt Nam, xu thế vận động của thời đại và khẳng định “đây là con đường của chúng ta”. Từ việc am hiểu sâu sắc thực tiễn cách mạng Việt Nam, nhìn nhận được những đặc điểm riêng biệt và đặt trong hệ quy chiếu của thời đại để áp dụng Chủ nghĩa Mác-Lênnin một cách sáng tạo và phát triển. Đồng thời, Người không ngừng học tập, làm giàu thêm kiến thức toàn diện bằng chuyến hành trình trải qua rất nhiều quốc gia, nhiều châu lục để tìm hiểu các tư tưởng, mô hình cách mạng, bước đi của các quốc gia… tiếp nhận những tư duy mới, để sàng lọc, lựa chọn con đường phù hợp, duy nhất đúng cho cách mạng Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên mà những nội dung trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên và trong vô vàn các tác phẩm khác của Người liên quan đến nhiều lĩnh vực vẫn vẹn nguyên giá trị thời đại, vẫn là “ngọn cờ” soi sáng con đường chúng ta đi hôm nay. Điều đó có được, bởi được hàm chứa trong đó những giá trị lý luận vượt thời đại và tính thực tiễn cao được đúc kết bằng tư duy luôn gắn lý luận với thực tiễn tạo nên một sức sống “bền vững”, trường tồn qua năm tháng.
Gắn lý luận với thực tiễn không chỉ để đúc kết tạo nên các giá trị lý luận, làm biến đổi thực tiễn, mà đối với Người còn là những điều giản dị, mộc mạc trong phong cách làm việc và lối sống, sinh hoạt. Là phong cách sống và làm việc quần chúng, luôn gần gũi, gắn bó với nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, lấy “ấm no, hạnh phúc” của nhân dân là “thước đo chân lý” cho lý luận, từ đó không ngừng bổ sung, điều chỉnh về chủ trương, đường lối để nghị quyết luôn mang hơi thở thực tiễn, thực sự đi vào cuộc sống, làm cho đời sống nhân dân ngày càng tốt hơn. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, dù trong cương vị nào, bối cảnh nào, điều kiện nào Người đều “nhiệt huyết” xâm nhập, lắng nghe thực tiễn. Một ngày làm việc, Người thường giành một buổi để đi về các địa phương, thăm hỏi đồng bào, chiến sĩ. Chỉ riêng 10 năm (1955-1965), Người đã có hơn 70 lần đi về các cơ sở và nơi Người về thường là những cánh đồng, nhà máy, đơn vị sản xuất và chiến đấu, đối tượng Người thăm hỏi là nông dân, công nhân, trí thức… để thấy được sự chân thực của thực tiễn và hiệu quả thực sự của lý luận. Chính điều này tạo ra niềm tin cho nhân dân, tạo ra động lực trong cống hiến và những chủ trương luôn nắm bắt, hợp với lòng dân.
Đồng thời, Người cũng là tấm gương mẫu mực về “nói đi đôi với làm”, “gương mẫu” trong thực hành xây dựng xã hội mới. Dù trong bất cứ điều kiện nào Người đều sống cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Lúc ở căn cứ địa Việt Bắc, Người sống gần gũi với đồng bào Tây Bắc, khi về Hà Nội trong điều kiện khó khăn, đất nước ở thế ngàn cân treo sợi tóc, Người đã dùng chính những đồng lương ít ỏi để góp phần xây dựng đất nước, ủng hộ nhân dân, và đã tự mình “10 ngày nhịn ăn 1 bữa để gạo đó cứu dân nghèo”… Đặc biệt, mặc dù là lãnh tụ có sự am hiểu sâu sắc về tri thức nhân loại, nhưng Người luôn có phong cách diễn đạt, truyền tải lý luận chân thực, ngắn gọn, súc tích, mang tính quần chúng cao, phù hợp với từng đối tượng, từng điều kiện nhất định… Đồng thời, sự gắn kết giữa lý luận và thực tiễn còn toát lên trong phong cách ứng xử khiêm tốn, chân thành, gần gũi của Người với các đối tượng. Đến thăm một lớp học, cơ quan, địa phương… Người đều khiêm tốn, hòa nhã, quan tâm đến mọi người. Đến thăm một quốc gia hay tiếp khách nước ngoài, Người luôn am hiểu về văn hóa quốc gia đó, luôn chân tình, cởi mở nồng hậu, giữ cốt cách của văn hóa Việt Nam… Tất cả những hình ảnh mực thước ấy đã biểu hiện cho một phong cách lý luận gắn với thực tiễn sinh động, cao cả và trong sáng, luôn ở mãi trong lòng dân tộc Việt Nam và nhân loại tiến bộ thế giới.
2. Học tập phong cách gắn lý luận với thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy lý luận chính trị cho đội ngũ giảng viên Trường Chính trị Quảng Bình hiện nay
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng như hiện nay, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đạt được nhiều thành tựu to lớn, song cũng đang đứng trước không ít khó khăn, thách thức đặt ra đối với lý luận lẫn thực tiễn, đòi hỏi cần phải được tiếp tục làm sáng tỏ, gắn kết không ngừng. Đại hội XIII của Đảng khẳng định “đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Gắn tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận với định hướng chính sách”[7], để thực hiện hiệu quả quan điểm của Đảng, cần thiết phải “đổi mới căn bản chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo phương châm khoa học, thực tiễn, sáng tạo và hiện đại”[8] để không ngừng nâng cao chất lượng giảng dạy lý luận chính trị giai đoạn hiện nay.
Nhận thức được điều đó, thời gian qua việc tăng cường gắn kết giữa lý luận với thực tiễn trong giảng dạy ở đội ngũ giảng viên Trường Chính trị Quảng Bình đạt được nhiều kết quả đồng bộ cả về “lượng” và “chất”. Với việc coi trọng gắn lý luận với thực tiễn trong các hoạt động lãnh đạo, quản lý, đánh giá chất lượng giảng viên của Nhà trường thì nhận thức của giảng viên về gắn kết giữa lý luận và thực tiễn trong từng bài giảng có sự chuyển biến rõ nét. Nhiều giảng viên đã chủ động tìm tòi, nghiên cứu “làm giàu” thêm kiến thức, tích cực ứng dụng công nghệ, nâng cao chất lượng bài giảng gắn với đổi mới phương pháp giảng dạy hiện đại, tích cực. Nhiều bài giảng có tính lý luận và thực tiễn cao, có sức hấp dẫn, gây chú ý, hứng thú người học, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng. Tuy nhiên, thực tiễn gắn kết giữa lý luận với thực tiễn trong giảng dạy vẫn còn một số tồn tại, biểu hiện ở những cấp độ khác nhau.
Toát lên từ phong cách gắn lý luận với thực tiễn của Bác, để phong cách “cao đẹp” ấy đi vào tiềm thức và hành động, quan tâm thực hiện một số vấn đề sau:
Thứ nhất, tăng cường nâng cao nhận thức trong việc gắn kết giữa lý luận và thực tiễn
Trước hết, giảng viên phải nhận thức sâu sắc hơn vị trí, vai trò, nguyên tắc, cách thức của việc gắn kết giữa lý luận và thực tiễn ngay trong từng bài giảng. Nếu bài giảng chỉ tập trung về mặt lý luận thì sẽ khô khan, thiếu sức sống, thiếu sinh động. Ngược lại, nếu bài giảng phong phú về kiến thức thực tiễn những thiếu các cơ sở lý luận, thì không có tính thuyết phục, logic và cơ sở vững chắc. Do vậy, cần xem việc gắn kết hài hòa giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản trong giảng dạy theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “lý luận phải đi đôi với thực tiễn”; “lý luận liên hệ với thực tế”; “lý luận kết hợp với thực hành”; “học đi đôi với hành”. Hơn nữa, việc gắn kết thành công giữa lý luận và thực tiễn trong từng bài giảng sẽ bồi đắp thế giới quan người học, củng cố niềm tin, bảo vệ tính đảng, nâng cao bản lĩnh chính tri, ngăn chặn, đầy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đồng thời, gắn kết thành công cũng chính là đổi mới và nâng cao chất lượng giảng dạy.
Để nâng cao nhận thức của giảng viên cần tiếp tục quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo; các quy định, quy chế liên quan. Đặc biệt, là quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 09/02/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới; Chỉ thị số 20-CT/TW của Ban Bí thư về tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng. Hơn nữa, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 14-KL/TW của ngày 22/9/2021 về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung và vừa qua, Chính phủ ban hành Nghị định số 73/2023/NĐ-CP ngày 29/9/2023 quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung… Vì vậy, đội ngũ giảng viên cần nhận thức sâu sắc tinh thần và nội dung, từ đó năng động, sáng tạo trong các hoạt động, từng bước nâng cao hơn nữa chất lượng giảng dạy.
Thứ hai, nâng cao kiến thức toàn diện và phát huy mạnh mẽ tính chủ động, sáng tạo trong việc gắn kết giữa lý luận và thực tiễn
Để gắn kết thành công giữa lý luận và thực tiễn, yếu tố quan trọng là giảng viên phải có nền tảng kiến thức toàn diện, sâu sắc và cả về lý luận lẫn thực tiễn. Kiến thức lý luận trong giảng dạy lý luận chính trị không chỉ truyền tải đúng quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, kinh nghiệm lịch sử, chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng, Nhà nước, mà giảng viên phải nêu bật được cái hay, cái sâu, cái khoa học của lý luận và vai trò của lý luận là mang tính định hướng, dẫn dắt thực tiễn… Ngược lại thực tiễn trong giảng dạy lý luận phải làm rõ được sự “biến động đa màu sắc, tính phức tạp” với những biểu hiện khác nhau, tác động “đa chiều” đến lý luận, thực tiễn cũng là “thước đo” để thấy được cái hay của lý luận khoa học.
Muốn vậy, giảng viên phải quán triệt sâu sắc sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, ngăn ngừa các biểu hiện về “kém lý luận, coi khinh lý luận, lý luận suông” hoặc thiếu thực tiễn, xa rồi thực tiễn, tuyệt đối hóa thực tiễn… bởi những cái đó dẫn đến căn bệnh giáo điều, sách vở cứng nhắc, chủ nghĩa kinh nghiệm,… Vì vậy, giảng viên phải chủ động học tập nâng cao trình độ lý luận kết hợp với tìm tòi, nghiên cứu, cập nhật những tổng kết mới về lý luận và thực tiễn từ những công trình nghiên cứu mới, các nguồn tư liệu mới có liên quan. Thường xuyên cập nhật chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật liên quan đến bài học... Lý luận là phong phú, thực tiễn lại muôn màu, luôn vận động trong thời đại ngày nay vì vậy, giảng viên phải tăng cường nghiên cứu thực tế, tổng kết thực tiễn, nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học, thường xuyên tìm hiểu các mô hình, gương thực tiễn… nhận định xu hướng để nắm bắt thực tiễn, mở đường cải biến nhận thức bản thân, từ đó lựa chọn những vấn đề phù hợp, tránh vanh nhau, không có sự thuyết phục… cần chú ý đến những vấn đề “thời sự”, vấn đề người học quan tâm, những vấn đề đã và đang đặt ra trong thực tiễn đổi mới đất nước để lồng ghép đưa vào bài giảng có sự luận giải sâu sắc, thuyết phục. Bên cạnh đó, về mặt quản lý, Nhà trường cần tiếp tục quan tâm đến các hoạt động nghiên cứu thực tế, các chương trình tham quan, tập huấn, bồi dưỡng để giảng viên tham gia. Tăng cường các hoạt động giao lưu, hội thảo, tọa đàm trao đổi kinh nghiệm theo từng cấp độ, phạm vi khác nhau để giảng viên có “không gian” tích lũy và nâng cao kiến thức lý luận và thực tiễn.
Thứ ba, tích cực bồi dưỡng kỹ năng và đẩy mạnh đổi mới phương pháp giảng dạy, lấy người học làm trung tâm, phát huy vai trò chủ động, phản biện từ học viên
Trong giảng dạy lý luận chính trị, giảng viên có kiến thức chưa hẳn đã truyền tải thành công nếu thiếu các kỹ năng, phương pháp. Hơn nữa, đối tượng của đào tạo lý luận chính trị rất đa dạng, ở các cấp độ, nhận thức, tư duy khác nhau, yêu cầu đặt ra là giảng viên phải trở thành “cầu nối” để học viên tiếp tục lĩnh hội tri thức, phát huy khả năng tư duy, bồi đắp kiến thức, nâng cao nhận thức, vì vậy phương pháp phải hướng đến người học, thỏa mãn lợi ích người học, làm cho ngươi học không chỉ biết, nhớ mà phải hiểu, vận dụng, phân tích, đánh giá, sáng tạo, vận dụng được lý luận vào thực tiễn, sáng tạo lý luận và phát triển thực tiễn. Để thực hiện được mục tiêu, giảng viên cần nhạy bén, nắm bắt tâm lý người học, đề cao vai trò người học. Đồng thời, chủ động rèn luyện, bồi dưỡng kỹ năng, phương pháp gắn kết, luận giải, phân tích những vấn đề có tính thuyết phục cao. Có năng lực thu thập, xử lý thông tin, kiến thức chuyển hóa đưa vào bài giảng phù hợp. Tích cực ứng dụng và sử dụng nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học tích cực, phương tiện dạy học một cách hợp lý, khoa học, hướng đến sự chủ động của học viên trong cách tiếp cận, luận giải và kết luận vấn đề. Cần nghiên cứu kỹ các vấn đề, câu hỏi thảo luận khoa học, phù hợp… hướng đến làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra. Sử dụng hợp lý phương pháp chuyên gia để khai thác tối đa kiến thức thực tiễn, kinh nghiệm, tư duy lý luận từ học viên. Tăng cường tiếp xúc, trao đổi, thảo luận với học viên để tìm hiểu và nắm bắt nhận thức, tư duy học viên.
Tăng cường gắn kết giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy lý luận chính trị là vấn đề có tính nguyên tắc, cơ bản nhưng lâu dài, phức tạp. Muốn làm được điều đó, từng giảng viên cần khắc ghi lời Bác “phải biết rằng thực tiễn khách quan thay đổi hàng giờ hàng phút, một chủ trương của ta hôm nay đúng, hôm sau đã không kịp thời, nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những tư tưởng, hành vi của ta để bỏ đi những cái quá thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ không theo kịp tình thế, ta sẽ bị bỏ rơi”[9]. Vì vậy, không ai khác mà chính từng giảng viên phải ra sức học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh một cách thiết thực, hiệu quả, trong đó có phong cách gắn lý luận với thực tiễn để từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy đáp ứng yêu cầu bối cảnh hiện nay.
Nguyễn Văn Giang
Trường Chính trị Quảng Bình
[1] Ban Chấp hành Trung ương, Chỉ thị số 05-CI7TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
[2] C. Mác-Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, t.36, tr.796, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, tr.98, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, tr.95, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, tr.96, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, tr.496, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, tr.181-182, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, tr.82, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, tr.96, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011