Sign In

Dự thảo Nghị quyết thay thế Nghị quyết số 119/2019/QH14 của Quốc hội đã bảo đảm cơ sở chính trị, căn cứ pháp lý, căn cứ thực tiễn và đúng thẩm quyền

12:04 31/05/2024
(MPI) - Trình bày báo cáo Thẩm tra về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị và thí điểm một số cơ chế, chính sách phát triển Thành phố Đà Nẵng, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách Lê Quang Mạnh khẳng định, việc Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định Dự thảo Nghị quyết thay thế Nghị quyết số 119/2019/QH14 của Quốc hội đã bảo đảm cơ sở chính trị, căn cứ pháp lý, căn cứ thực tiễn và đúng thẩm quyền.

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách Lê Quang Mạnh trình bày báo cáo Thẩm tra về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị và thí điểm một số cơ chế, chính sách phát triển Thành phố Đà Nẵng. Ảnh: quochoi.vn

Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/01/2019 của Bộ Chính trị đã xác định cần tạo cơ sở pháp lý để phát huy tiềm năng, lợi thế, tạo đột phá về phát triển kinh tế - xã hội cho TP. Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Kết luận số 79-KL/TW ngày 13/5/2024 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 43 của Bộ Chính trị khóa XII về xây dựng và phát triển TP. Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách Lê Quang Mạnh cho biết, qua tổng kết Nghị quyết 43 của Bộ Chính trị, qua đánh giá việc thực hiện Nghị quyết 119 của Quốc hội, theo Báo cáo của Chính phủ, cho thấy các quy định hiện hành chưa bao quát hết các vấn đề phát sinh cần có cơ chế đặc thù; một số quy định không còn phù hợp thực tiễn. Để tạo tiền đề cho phát triển TP. Đà Nẵng thì cần nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện một bước các cơ chế, chính sách đặc thù cho những năm tiếp theo. 

Vì vậy, Ủy ban Ủy ban Tài chính - Ngân sách cho rằng, việc Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định Dự thảo Nghị quyết thay thế Nghị quyết 119 đã bảo đảm cơ sở chính trị, căn cứ pháp lý, căn cứ thực tiễn và đúng thẩm quyền.

Tuy nhiên, để bảo đảm xem xét kỹ lưỡng các chính sách, nên trình Quốc hội quyết định vào Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, Ủy ban TCNS đề nghị cần lưu ý một số quan điểm, nguyên tắc sau. Thứ nhất, Nghị quyết cần tập trung để tháo gỡ kịp thời các vướng mắc về thể chế, chính sách, pháp luật đã và đang cản trở tiến trình phát triển của Thành phố; góp phần khơi thông nguồn lực, phát huy tiềm năng, thế mạnh, song phải bảo đảm việc xây dựng chính sách không hợp thức hóa những sai phạm; bảo đảm tính minh bạch, tránh lợi dụng chính sách gây thất thoát, lãng phí nguồn lực nhà nước. 

Thứ hai là, bảo đảm tính đột phá theo đúng tinh thần Nghị quyết số 43-NQ/TW và Kết luận số 79-KL/TW, song cũng cần khả thi, phù hợp thực tiễn và bảo đảm hiệu quả khi thực hiện; có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải. Cơ chế đột phá cần đi đôi với năng lực thực hiện, khả năng quản lý, điều hành, kiểm soát và các điều kiện bảo đảm triển khai thực hiện.

Thứ ba là, phải thực sự mang tính lan tỏa, tác động sâu rộng không chỉ riêng đối với TP. Đà Nẵng mà cần mang lại hiệu ứng tích cực đối với Vùng và cả nước; hạn chế các chính sách tác động tiêu cực đến vai trò chủ đạo của NSTW trong trung và dài hạn, nhất là khi TP. Đà Nẵng đang là địa phương có tỷ lệ điều tiết về NSTW.

Thứ tư là, cần hoàn thiện các quy định về điều kiện bảo đảm triển khai: Dự thảo quy định theo hướng tăng cường phân cấp và ủy quyền, nhiều nhiệm vụ được giao cho Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố. Việc phân cấp thẩm quyền quyết định một số nội dung cho Thành phố phải bảo đảm hiệu quả thực hiện cao hơn là làm theo quy định hiện hành. Để triển khai các quy định này cần khá nhiều văn bản hướng dẫn thi hành về quy trình, thủ tục... Vì vậy, đề nghị quy định rõ trong điều khoản thi hành những công việc cần triển khai; giao trách nhiệm cụ thể; tránh tình trạng ban hành xong Nghị quyết nhưng không thể vận hành do các tổ chức, cá nhân, các cấp, các ngành không rõ căn cứ triển khai. Bổ sung quy định về tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện. 

Về phạm vi chính sách, Ủy ban TCNS cho rằng, các chính sách được xây dựng khá toàn diện, trên nhiều lĩnh vực, có kế thừa và tích hợp một số chính sách tương đồng chính sách đặc thù của một số tỉnh, thành phố đã được Quốc hội cho phép áp dụng (Khánh Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh…); đồng thời, xây dựng mới một số chính sách đặc thù riêng cho Thành phố. Tuy nhiên, để tiếp tục hoàn thiện, Ủy ban TCNS nêu một số vấn đề cần cân nhắc thêm căn cứ thực tiễn, rõ về nội hàm, không quy định vấn đề chưa rõ, có thể tạo ra những xung đột pháp luật, vướng mắc trong triển khai; cần có các chính sách thực sự mang tính đặc thù riêng biệt, tương thích với đặc điểm riêng về vị trí địa lý, lợi thế về tiềm năng kinh tế, con người để bảo đảm thực hiện mục tiêu phát triển TP. Đà Nẵng theo tinh thần Nghị quyết 43 và quy hoạch của thành phố được Chính phủ phê duyệt; tiếp tục rà soát, tính toán và giải trình cụ thể để làm rõ hơn về sự cần thiết và tính khả thi khi áp dụng cho TP. Đà Nẵng. Đối với các chính sách mới, đề nghị rà soát, cân nhắc, lược bỏ những chính sách đã được quy định tại các luật vừa được Quốc hội thông qua và các chính sách nằm trong định hướng sửa đổi, bổ sung trong các nghị định. 

Đối với nhóm chính sách đã quy định tại Nghị quyết 119 được tiếp tục triển khai, không sửa đổi, Ủy ban TCNS nhất trí với những chính sách được đánh giá là hiệu quả và cần tiếp tục kế thừa tại Nghị quyết 119. Đồng thời, đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát từng chính sách thuộc nhóm này, theo đó cần phân tích tính phù hợp với đặc thù của TP.Đà Nẵng, đã phát huy tác dụng ở mức độ nào, có thật sự cần thiết áp dụng tiếp hay không, để có căn cứ thuyết phục trình Quốc hội cho phép tiếp tục áp dụng chính thức hoặc đề xuất loại bỏ.

Về cơ cấu tổ chức HĐND và bổ sung số lượng đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách (khoản 2 Điều 5), quy định tại dự thảo Nghị quyết cơ bản thống nhất với quy định về cơ cấu tổ chức HĐND thành phố tại các địa phương thực hiện thí điểm mô hình chính quyền đô thị như tại thủ đô Hà Nội và được thực hiện chính thức tại Thành phố Hồ Chí Minh; bảo đảm “tương đồng với các thành phố lớn khác trong cả nước” theo đúng quan điểm chỉ đạo tại Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/01/2019 của Bộ Chính trị. Bên cạnh đó, việc bổ sung mỗi ban có thể có 01 ủy viên chuyên trách sẽ tăng cường thêm năng lực giám sát của HĐND thành phố đối với hoạt động của các cấp chính quyền địa phương trong bối cảnh không tổ chức HĐND quận, phường. Do vậy, đa số ý kiến nhất trí với Dự thảo Nghị quyết.

Về chính sách đề xuất mới, cụ thể là về bổ sung nhiệm vụ quyền hạn của UBND quận (điểm m khoản 3 Điều 7)  và UBND phường (Điểm g khoản 3 Điều 8), ông Lê Quang Mạnh cho biết, thực hiện thí điểm mô hình tổ chức chính quyền đô thị, Thành phố không tổ chức HĐND quận, phường. Tuy nhiên, trong Nghị quyết 119 chưa có quy định về việc cơ quan nào có thẩm quyền thay thế chức năng, nhiệm vụ của HĐND quận, phường, dẫn đến vướng mắc trong quá trình triển khai, thực hiện. Đây là chính sách bổ sung để khắc phục những vướng mắc qua 03 năm thực hiện Nghị quyết số 119, phù hợp chủ trương của Bộ Chính trị tại Kết luận số 79-KL/TW: “tiếp tục rà soát, hoàn thiện quy định của pháp luật để tháo gỡ vướng mắc, bất cập khi thực hiện chính quyền đô thị”. Vì vậy, đa số ý kiến nhất trí bổ sung thêm nhiệm vụ quyền hạn của UBND quận, phường như quy định của Dự thảo Nghị quyết.

Về bổ sung thẩm quyền HĐND thành phố bãi bỏ văn bản của HĐND quận và phường ban hành trước ngày 01/7/2021 (khoản 1 Điều 18), đa số ý kiến nhất trí với nội dung này và cho rằng, việc quy định bổ sung thẩm quyền cho HĐND thành phố được bãi bỏ văn bản không còn phù hợp của HĐND quận, huyện ban hành trước ngày 01/7/2021 là cần thiết và phù hợp với tình hình thực tế.

Báo cáo của Ủy ban TCSN cũng làm rõ từng chế, chính sách đặc thù cụ thể được nêu tại Dự thảo. Trong đó, về kinh phí hỗ trợ cho phát triển dự án khởi nghiệp sáng tạo (điểm d khoản 1 Điều 14), đa số ý kiến Ủy ban TCNS cơ bản nhất trí với quy định này và cho rằng, việc xác định kinh phí thực hiện từ nguồn ngân sách Thành phố sẽ bảo đảm tính bao quát, đầy đủ hơn, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư phát triển. Song, đề nghị cần quy định rõ trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện chính sách trên để làm căn cứ cho việc thanh tra, kiểm tra, giám sát, bảo đảm việc sử dụng NSNN đúng mục tiêu, mục đích, có hiệu quả và tránh lợi dụng chính sách.

Có ý kiến đề nghị làm rõ mức hỗ trợ cụ thể, cách thức xây dựng, phê duyệt dự toán hằng năm, cách thức xác định, lựa chọn đối tượng thụ hưởng. Có ý kiến đề nghị làm rõ việc sử dụng chi đầu tư cho các nhiệm vụ này do nhiều hoạt động nêu trên không thuộc phạm vi sử dụng vốn đầu tư.

Về thu hút nhà đầu tư chiến lược (Điều 12), Ủy ban TCNS cho rằng, chủ trương thu hút các nhà đầu tư chiến lược vào Thành phố là cần thiết, với những lý do sau: tạo thêm nguồn lực hỗ trợ Thành phố phát triển nhanh, bền vững; chính sách này đã được áp dụng tại tỉnh Khánh Hòa, TP.Hồ Chí Minh, nhưng với TP. Đà Nẵng có bổ sung thêm một số lĩnh vực  và điều chỉnh quy mô vốn thấp hơn so với TP.Hồ Chí Minh để phù hợp với thực tế địa phương.

Tuy nhiên qua nghiên cứu Dự thảo, Ủy ban TCNS nhận thấy, để có thêm căn cứ trình Quốc hội xem xét, quyết định, đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo đánh giá tác động kỹ lưỡng, đặc biệt là tác động đối với NSNN, bổ sung giải trình, đánh giá tác động cụ thể cho từng chính sách thu hút đầu tư quy định tại Điều 12 Dự thảo Nghị quyết.

Về Danh mục ưu đãi đầu tư (khoản 1 Điều 12), Ủy ban TCNS nhận thấy, khoản 1 Điều 12 quy định Danh mục ngành, nghề ưu tiên thu hút nhà đầu tư chiến lược vào Thành phố có phạm vi, lĩnh vực, ngành nghề khá rộng , nhưng chưa làm rõ căn cứ xác định quy mô vốn đầu tư tương ứng với từng loại hình. Do vậy, đề nghị Cơ quan soạn thảo cần báo cáo rõ hơn và rà soát, thu hẹp danh mục ngành nghề ưu đãi tại khoản này. 

Về các ưu đãi đối với nhà đầu tư chiến lược (khoản 5 Điều 12), Ủy ban TCNS nhất trí với việc ưu tiên về thủ tục hải quan nhằm đơn giản hóa thủ tục, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và đây cũng là chính sách tương đồng như chính sách đã được Quốc hội cho phép thí điểm tại tỉnh Khánh Hòa. Tuy nhiên, đi đôi với đơn giản hóa thủ tục, đề nghị bổ sung quy định về trách nhiệm của các cơ quan chức năng.

Về xác định thu nhập chịu thuế đối với hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D): Ủy ban TCNS nhất trí với chính sách ưu tiên khi xác định thu nhập chịu thuế đối với hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) bằng 150% chi phí thực tế của hoạt động này để tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Chính sách sẽ góp phần thu hút các nhà đầu tư chiến lược đầu tư tại TP. Đà Nẵng; đồng thời, chính sách này tương tự như chính sách đã áp dụng tại TP.Hồ Chí Minh. Để bảo đảm tính khả thi trên thực tế, đề nghị bổ sung quy định rõ về cơ quan có trách nhiệm hướng dẫn thi hành. 

Thời hạn giải ngân của nhà đầu tư chiến lược: Đa số ý kiến nhất trí với Dự thảo Nghị quyết quy định Nhà đầu tư chiến lược phải giải ngân vốn đầu tư trong thời hạn 07 năm kể từ ngày được cấp có thẩm quyền quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư; … 10 năm kể từ ngày bàn giao đất, mặt nước trên thực địa. Một số ý kiến cho rằng, thời hạn trên là quá dài, làm giảm tác động kịp thời của việc thu hút nhà đầu tư chiến lược với khá nhiều ưu đãi; đề nghị rút ngắn thời hạn để sớm phát huy tác dụng.

Về chủ trương thí điểm thành lập khu thương mại tự do, đa số ý kiến Ủy ban TCNS cho rằng, việc thí điểm thành lập Khu thương mại tự do là chủ trương lớn có đủ căn cứ chính trị, căn cứ pháp lý. Đây là chính sách mang tính đột phá, là quyết tâm chính trị, tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của TP. Đà Nẵng và Chính phủ trong áp dụng mô hình phát triển tiên tiến của thế giới; nếu thực hiện thành công sẽ tạo tiền đề thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của TP. Đà Nẵng và của cả Vùng. Việc thí điểm mang ý nghĩa đặt nền móng cho việc hình thành chính sách mới trong quá trình vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta; đồng thời, có lựa chọn lĩnh vực đột phá để tập trung phát triển là vi mạch bán dẫn, trí tuệ nhân tạo. Đây cũng là bước thử nghiệm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm để hoàn thiện dần. Vì vậy, đa số ý kiến trong Ủy ban TCNS tán thành với chủ trương thí điểm thành lập Khu thương mại tự do tại TP. Đà Nẵng.

Về phát triển lĩnh vực vi mạch bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (khoản 4 Điều 14), đa số ý kiến trong Ủy ban TCNS nhất trí chủ trương áp dụng chính sách này, vì việc thí điểm thực hiện cơ chế chính sách phát triển lĩnh vực vi mạch bán dẫn, trí tuệ nhân tạo phù hợp Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Phù hợp với Nghị quyết 43 của Bộ chính trị.  Chính sách này phù hợp với đặc thù, định hướng phát triển TP. Đà Nẵng; các chính sách hỗ trợ đã tính đến yếu tố phát triển kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin, vừa chú trọng quan tâm đến việc đào tạo nguồn nhân lực.

Đối với quy định tại điểm c khoản 4 Điều 14: “Hội đồng nhân dân Thành phố quyết định hỗ trợ từ ngân sách Thành phố không quá 5% tổng chi phí mua thiết bị hỗ trợ cho doanh nghiệp sản xuất, chi phí di chuyển tài sản, dây chuyền, thiết bị, công nghệ… trong lĩnh vực vi mạch bán dẫn trí tuệ nhân tạo”.

Về đầu tư, quản lý, khai thác và xử lý tài sản kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo (khoản 3 Điều 14), Ủy ban TCNS thống nhất việc thực hiện thí điểm chính sách trên bởi theo quy định pháp luật, đến thời điểm hiện nay, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định đầy đủ, cụ thể về việc quản lý, khai thác tài sản kết cấu hạ tầng khoa học và công nghệ , dẫn đến những vướng mắc khi triển khai thực hiện các cơ chế đặc thù trong thực tế. Phù hợp với Quyết định số 569/QĐ-TTg ngày 11/5/2022 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Chiến lược Phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030 về: “... Nghiên cứu đổi mới cơ chế, chính sách pháp luật về đầu tư, đầu tư công, mua sắm công, ngân sách nhà nước, tài sản công, thuế để khuyến khích, phát triển hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo…”; Tạo thêm nguồn lực hỗ trợ phát triển nhanh lĩnh vực đổi mới khoa học công nghệ và thu hút các nhà đầu tư chiến lược, sớm đưa TP. Đà Nẵng trở thành trung tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo của quốc gia theo đúng tinh thần Nghị quyết 43 đã đề ra./.

Tag:

File đính kèm

Tin đọc nhiều