1. Chủ trương tự chủ đại học
Trên thế giới có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm tự chủ đại học tùy theo nhận thức về vai trò của nhà nước đối với giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng. Ở các nước châu Âu, tự chủ đại học được nhìn nhận từ hai khía cạnh: thoát ra khỏi sự kiểm soát, hạn chế của các cơ quan quản lý nhà nước, của thị trường lao động, nhà cung cấp dịch vụ và các ảnh hưởng chính trị, là quyền tự do đưa ra các quyết định về cách thức tổ chức hoạt động cũng như mục tiêu sứ mạng của trường. Tự chủ cũng có thể được thể hiện ở hai cấp: cấp độ giữa trường đại học với nhà nước, và cấp độ giữa trường với các bộ phận trong trường. Tự chủ cũng có thể chỉ có tính chất thủ tục, hình thức (procedural) – quyền quyết định các phương tiện, cách thức để đạt đến mục tiêu đã được xác định trước, hoặc tự chủ có tính thực chất (substantial) – quyền quyết định các mục tiêu cũng như chương trình hoạt động. Tự chủ cũng có thể được nhìn nhận như là các quyền lực có điều kiện: các trường chỉ có thể có quyền tự chủ khi đã đạt được các chuẩn mực quốc gia hoặc các chuẩn mực đã được định sẵn theo các chính sách công. Tuy được nhìn nhận dưới nhiều khía cạnh khác nhau, tự chủ của trường đại học vẫn có thể được khái quát là khả năng của trường được hoạt động theo cách thức mình lựa chọn để đạt được sứ mạng và mục tiêu do trường đặt ra.
Ở Việt Nam, chủ trương tự chủ trong giáo dục đại học của Đảng và Nhà nước ta có vai trò quan trọng, giúp các cơ sở giáo dục đại học phát huy nội lực, khả năng sáng tạo, hoạt động một cách có hiệu quả và từng bước đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết nguồn nhân lực có chất lượng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc triển khai thực hiện tự chủ đã trở thành một nhu cầu tự thân, một xu thế tất yếu và có tính khách quan, vừa là mục tiêu, vừa là động lực giúp các cơ sở giáo dục đại học phát huy tính chủ động, sáng tạo, tháo gỡ những vướng mắc về quản lý nhà nước, hoạt động của nhà trường, quản lý của bộ chủ quản; giúp các nhà trường thực hiện các phương thức quản trị đại học tiên tiến, quyết định cách thức và phương thức thực hiện sứ mạng, tự chịu trách nhiệm trước công chúng và pháp luật về mọi quyết định cũng như hoạt động của chính mình để nâng cao hiệu quả hoạt động, nâng cao chất lượng đào tạo, năng lực cạnh tranh, tạo ra một sức sống mới hướng tới cung cấp cho thị trường lao động nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi cấp thiết của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ngày 02/11/2005, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP “về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam 2006 - 2020”, xác định: “trên cơ sở đổi mới tư duy và cơ chế quản lý giáo dục đại học, kết hợp hợp lý và hiệu quả giữa việc phân định rõ chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước và việc đảm bảo quyền tự chủ, tăng cường trách nhiệm xã hội, tính minh bạch của các cơ sở giáo dục đại học. Phát huy tính tích cực và chủ động của các cơ sở giáo dục đại học trong công cuộc đổi mới mà nòng cốt là đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý và sự hưởng ứng, tham gia tích cực của toàn xã hội Thực hiện hạch toán thu - chi đối với cơ sở giáo dục đại học công lập, tạo điều kiện để các cơ sở giáo dục đại học cơ quyền tự chủ cao trong thu - chi theo nguyên tắc lấy các nguồn thu bù đủ các khoản chi hợp lý, có tích lũy cần thiết để phát triển cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và nghiên cứu. Chuyển các cơ sở giáo dục đại học công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, có pháp nhân đầy đủ, có quyền quyết định và chịu trách nhiệm về đào tạo, nghiên cứu, tổ chức, nhân sự và tài chính. Xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, xây dựng cơ chế đại diện sở hữu nhà nước đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập. Bảo đảm vai trò kiểm tra, giám sát của cộng đồng; phát huy vai trò của các đoàn thể, tổ chức quần chúng, đặc biệt là các hội nghề nghiệp trong việc giám sát chất lượng giáo dục đại học”.
Tiếp tục hoàn thiện các quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ sở giáo dục đại học, hoạt động đào tạo, hoạt động khoa học và công nghệ, hoạt động hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục đại học, giảng viên, người học, tài chính, tài sản của cơ sở giáo dục đại học và quản lý nhà nước về giáo dục đại học. Ngày 18/6/2012, Quốc hội khóa XIII ban hành Luật Giáo dục đại học số 08/2012/QH13, trong đó với tinh thần quán triệt, nhận thức hơn nữa đối với tự chủ đại học, Luật quy định quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học như sau: (1). Cơ sở giáo dục đại học tự chủ trong các hoạt động chủ yếu thuộc các lĩnh vực tổ chức và nhân sự, tài chính và tài sản, đào tạo, khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng giáo dục đại học. Cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền tự chủ ở mức độ cao hơn phù hợp với năng lực, kết quả xếp hạng và kết quả kiểm định chất lượng giáo dục; (2). Cơ sở giáo dục đại học không còn đủ năng lực thực hiện quyền tự chủ hoặc vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện quyền tự chủ, tùy thuộc mức độ, bị xử lý theo quy định của pháp luật. Luật đã cho phép các cơ sở giáo dục thực hiện xã hội hóa giáo dục đại học; ưu tiên về đất đai, thuế, tín dụng, đào tạo cán bộ để khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học tư thục và cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động không vì lợi nhuận; ưu tiên cho phép thành lập cơ sở giáo dục đại học tư thục có vốn đầu tư lớn, bảo đảm các điều kiện thành lập theo quy định của pháp luật; cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục đại học vì mục đích vụ lợi.
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tám khóa XI, ngày 04/11/2013 (Nghị quyết số 29-NQ/TW) “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đề ra nhiệm vụ, giải pháp cho phép giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục, đào tạo; phát huy vai trò của hội đồng trường.
Tuy nhiên, cơ chế thực hiện tự chủ đại học được quy định trong Luật Giáo dục đại học số 08/2012/QH13 còn chưa đủ chi tiết dẫn đến lúng túng khi triển khai thực hiện. Ngày 24/10/2014, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 77/NQ-CP “về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở đại học công lập giai đoạn 2014-2017” (Nghị quyết số 77-NQ-CP), trong đó đã phê duyệt thí điểm tự chủ toàn diện đối với 23 trường đại học với mong muốn các cơ sở giáo dục đại học này là những đầu tàu, có vai trò dẫn dắt cả hệ thống đại học thực hiện tự chủ trong giai đoạn tới. Tại Hội nghị tổng kết thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập theo Nghị quyết số 77/NQ-CP cho thấy, sau ba năm thí điểm tự chủ mô hình thí điểm tự chủ được đánh giá tích cực, tuy nhiên, nhiều khó khăn, vướng mắc cũng đã bộc lộ cần được tháo gỡ trước khi cơ chế tự chủ chính thức được vận hành rộng rãi. Ví du như: Hoạt động tự chủ đại học của các trường đại học công lập hiện đang chịu ảnh hưởng trực tiếp của Luật Giáo dục, Luật Giáo dục Đại học, Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư công, Luật Xây dựng, Luật Đất đai, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Viên chức và các luật về thuế, tài chính; các nghị định của Chính phủ, Điều lệ trường đại học và rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác…do vậy cơ sở pháp lý về tự chủ đại học chưa vững chắc và thiếu đồng bộ, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật vẫn còn có những quy định chưa phù hợp đối với quá trình vận hành của các trường được giao tự chủ, một số văn bản quy định còn thiếu tính cụ thể, rõ ràng dẫn đến khó khăn khi triển khai.
Trên cơ sở kết quả thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với giáo dục đại học, tại Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2017 về kết quả thực hiện Nghị quyết số 77/NQ/CP về “thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014 - 2017”, Thủ tướng Chính phủ Kết luận: giao Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan khẩn trương hoàn thiện trình Chính phủ ban hành dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của cơ sở giáo dục đại học công lập theo tinh thần Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 25/10/2017 “về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập” của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII và kế thừa các quy định đã phát huy hiệu quả trên thực tiễn của Nghị quyết số 77/NQ-CP; đồng thời, chủ động phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan rà soát, kiến nghị sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật liên quan để thực hiện thống nhất, đồng bộ cơ chế tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập.
Đối với các cơ sở giáo dục đại học và cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã được giao thực hiện thí điểm Nghị quyết số 77/NQ-CP tiếp tục thực hiện cho tới khi có Nghị định của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học công lập và Nghị định của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của cơ sở giáo dục nghề nghiệp có hiệu lực thi hành.
Nhằm thể chế hóa cụ thể về tự chủ đại học hơn nữa, ngày 19/11/2018, Quốc hội khóa XIV ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (Luật số 34/2018/QH14), trong đó đã thể chế hóa cụ thể 4 nhóm chính sách là: (1) Mở rộng phạm vi và nâng cao hiệu quả tự chủ đại học; (2) Đổi mới quản trị đại học; (3) Đổi mới quản lý đào tạo và (4) Đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục đại học, với mục đích hướng tới phục vụ cho mục tiêu đẩy mạnh thực hiện tự chủ đại học ngày càng thực chất và hiệu quả. Chính phủ ban hành Nghị định số 99/2019/NĐ-CP, ngày 30/12/2019 về “Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học”, trong đó quy định về quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của trường đại học chi tiết và cụ thể: (1). Quyền tự chủ về học thuật và hoạt động chuyên môn; (2). Quyền tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân sự; (3). Quyền tự chủ về tài chính và tài sản; (4). Trách nhiệm giải trình (5). Quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục đại học thuộc lực lượng vũ trang nhân dân.
Văn kiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: tiếp tục đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, trọng tâm là hiện đại hóa giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo để đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng, trong đó nhấn mạnh “Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, hoàn thiện chính sách phát triển các cơ sở đào tạo ngoài công lập, thực hiện cơ chế tự chủ đối với đào tạo bậc đại học phù hợp với xu thế chung của thế giới, chuyển đổi trường đại học công lập kém hiệu quả sang mô hình hợp tác công- tư”; “Tăng cường công tác kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục; xếp hạng các trường đại học. Quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học; phát triển cơ sở giáo dục đại học chất lượng cao theo chuẩn khu vực và thế giới, ưu tiên nguồn lực phát triển các trường công nghệ”.
Như vậy, có thể khẳng định, tự chủ đại học đã Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, thể chế hóa thành quy định, hướng dẫn khá đầy đủ. Nhận thức về tự chủ đại học có nhiều đổi mới, chuyển biến tích cực. Hệ thống văn bản của Đảng và Nhà nước đã tạo hành lang pháp lý cho các cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền tự chủ, bảo đảm hoạt động theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước. Việc thực hiện tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục đại học công lập bước đầu có kết quả nhất định, giúp giảm bớt các thủ tục hành chính, tăng tính chủ động, linh hoạt trong tổ chức thực hiện các hoạt động của nhà trường. Mô hình thí điểm tự chủ bước đầu được đánh giá tích cực ở một số cơ sở giáo dục đại học, đạt được những thành tựu nhất định và được xã hội công nhận, góp phần đưa giáo dục đại học Việt Nam từng bước hội nhập tốt hơn với giáo dục đại học trên thế giới
2. Một số kết quả về tự chủ đại học
Thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về tự chủ đại học, đến nay nhận thức về tinh thần tự chủ nhìn chung đã đến từng cơ sở và đội ngũ giảng viên đại học. Tư duy đổi mới cho lãnh đạo các trường đại học, trực tiếp từ các hiệu trưởng có chuyển biến. Hội đồng trường đã thể hiện được quyền lực của mình trong quyết định vấn đề về tổ chức bộ máy nhân sự của nhà trường và về tài chính. Cả nước có 154/170 cơ sở giáo dục đại học công lập đã thành lập Hội đồng trường và đi vào hoạt động (đạt tỷ lệ 90,6%); trong đó, có 36/36 cơ sở giáo dục đại học công lập trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thành lập Hội đồng trường. Các trường trực thuộc các bộ, ngành, địa phương thành lập Hội đồng trường đạt tỷ lệ 91,18%, trong đó, 15 cơ sở giáo dục đại học công lập thuộc các bộ, ngành, địa phương đang xây dựng và trình cấp có thẩm quyền công nhận Hội đồng trường. 142/232 trường đại học đủ điều kiện tự chủ theo quy định của Luật số 34/2018/QH14. Cả nước có 32,7% trường đại học tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư; 13,7% trường đảm bảo chi thường xuyên. Tổng thu của các cơ sở giáo dục đại học tự chủ tăng rõ rệt. Thu nhập bình quân tăng 20,8% đối với giảng viên và 18,7% đối với cán bộ quản lý. Trong đó số giảng viên có thu nhập trên 200 triệu đồng/năm tăng từ 19,4% lên 31,3%; thu nhập trên 300 triệu trở lên tăng từ 0,7% lên 5,9% sau 3 năm thực hiện tự chủ.
Các cơ sở giáo dục đại học tự chủ đã chủ động rà soát, kiện toàn lại tổ chức bộ máy và nhân sự theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Vai trò của Hội đồng trường được cụ thể hóa và nâng cao trong tổ chức quản trị hoạt động của hầu hết các cơ sở giáo dục đại học. Chủ động tăng số lượng giảng viên và giảm số lượng lao động khối hành chính[1]; đồng thời, thu hút đội ngũ giảng viên, chuyên gia giỏi tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học[2] với mục tiêu góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, mở rộng quy mô, nâng cao thu nhập cho giảng viên; đẩy mạnh quá trình xã hội hóa giáo dục, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị nhằm đáp ứng đầy đủ hơn điều kiện giảng dạy và nghiên cứu khoa học, phục vụ cộng đồng; liên kết với thị trường lao động, đào tạo đi vào thực chất; tăng cường kiểm soát các khoản chi, gia tăng tiết kiệm, bảo đảm tính hiệu quả trong quản lý và sử dụng nguồn lực.
Tự chủ về chuyên môn học thuật mở ngành đào tạo/chương trình liên kết đào tạo ở các cơ sở giáo dục đại học là một nội dung quan trọng trong hoạt động tự chủ, bên cạnh việc mở ngành đào tạo mới, phát triển các chương trình liên kết đào tạo trong và ngoài nước, các trường đại học cũng tích cực điều chỉnh các chương trình đào tạo đáp ứng nhu cầu người học[3]; đổi mới phương pháp giảng dạy tiên tiến, tiếp cận với chuẩn đào tạo và chương trình đào tạo quốc tế, chủ động tăng cường công tác bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục; tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh trong tuyển sinh, thu hút sinh viên giỏi. Quy mô tuyển sinh sinh viên hệ đại trà sau tự chủ có xu hướng giảm và thay vào đó là tăng quy mô tuyển sinh các chương trình đào tạo tiên tiến, đào tạo chất lượng cao, liên kết đào tạo với nước ngoài và đào tạo bằng tiếng Anh. Nhiều chương trình liên kết đào tạo với các trường đại học trên thế giới, chương trình đào tạo tiên tiến tiếp tục được nhiều cơ sở giáo dục đại học quan tâm phát triển. Tính đến tháng 12/2021, cả nước có 408 chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài đang hoạt động. Trong đó, các cơ sở sở giáo dục đại học tự chủ đã phê duyệt tổng cộng 186 chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài, 124 chương trình ở trình độ đại học; 58 chương trình ở trình độ thạc sĩ và 04 chương trình ở trình độ tiến sĩ.
Các cơ sở giáo dục đại học ngày càng chủ động hơn trong việc quyết định hướng nghiên cứu và tham gia các nhiệm vụ khoa học công nghệ, từ đó chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Tính riêng các trường trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, số công bố khoa học quốc tế[4], công bố trong nước, sáng chế và tài sản trí tuệ khác tăng dần qua các năm; nhiều đề tài, nhiệm vụ đã đóng góp quan trọng, thiết thực cho các ngành công nghiệp, cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và các địa phương[5]. Số lượng cơ sở giáo dục đại học được kiểm định ngày càng tăng. Tính đến ngày 30/6/2022, theo tiêu chuẩn trong nước, có 266 cơ sở giáo dục hoàn thành báo cáo tự đánh giá chu kỳ 1 (trong đó, có 236 cơ sở giáo dục đại học và 28 trường Cao đẳng sư phạm) và 22 cơ sở giáo dục đại học hoàn thành tự đánh giá chu kỳ 2; 174 cơ sở giáo dục đại học và 11 trường cao đẳng sư phạm được các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục trong nước công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục; 705 chương trình đào tạo hoàn thành báo cáo tự đánh giá (trong đó có 559 chương trình đào tạo được đánh giá ngoài) và 470 chương trình đào tạo được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục theo bộ tiêu chuẩn Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Theo tiêu chuẩn nước ngoài, có 07 trường đại học được đánh giá ngoài và được công nhận theo tiêu chuẩn đánh giá cơ sở giáo dục của Hội đồng Cấp cao về Đánh giá nghiên cứu và giáo dục đại học Pháp (HCERES) và AUN-QA; 308 chương trình đào tạo được đánh giá và công nhận bởi 10 tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài có uy tín.
Theo kết quả xếp hạng các quốc gia về lĩnh vực giáo dục năm 2021 của USNEWS, Việt Nam xếp thứ 59, tăng 5 bậc so với năm 2020 (tuy nhiên vẫn xếp sau một số nước trong khu vực Đông Nam Á). Các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam tiếp tục được xếp hạng cao và tăng thứ bậc trên các bảng xếp hạng uy tín quốc tế. So với các năm trước, năm 2022 là một bước nhảy vọt khi có tới 5 đại diện của Việt Nam được lọt vào bảng xếp hạng THE[6]; có 05 cơ sở giáo dục đại học trong Bảng xếp các trường đại học tốt nhất toàn cầu năm 2022 (Best Global Universities)[7]; có thêm 02 cơ sở giáo dục đại học (tổng là 05 cơ sở) có tên trong bảng xếp hạng QS World University Rankings 2023; 10 cơ sở giáo dục đại học trong bảng xếp hạng Webometrics; 05 cơ sở giáo dục trong bảng xếp hạng các trường đại học ở các nền kinh tế mới nổi 2021 (THE Emerging Economies University Rankings 2021); 11 cơ sở giáo dục đại học trong bảng xếp hạng đại học châu Á (QS Asian University Rankings 2022)[8]; 07 cơ sở giáo dục đại học tại bảng xếp hạng THE Impact Rankings năm 2022[9].
Bên cạnh những kết quả tích cực, khích lệ về thực hiện tự chủ đại học, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, tạo dựng vị thế, năng lực cạnh tranh và tiếp cận với xu thế giáo dục đại học thế giới, trong quá trình thực hiện tự chủ còn nảy sinh nhiều vấn đề, nhiều cơ sơ sở giáo dục đại học chưa xác định tự chủ trở thành nhu cầu nội tại của cơ sở giáo dục đại học trong xây dựng kế hoạch, chương trình, chiến lược phát triển của cơ sở. Cách tiếp cận về nội hàm, ý nghĩa, vai trò đối với tự chủ đại học vẫn chưa rõ ràng, nhiều cơ sở đại học kể cả đội ngũ lãnh đạo, giảng viên đại học, thậm chí các nhà nghiên cứu giáo dục đại học, nhà quản lý còn có cách hiểu không thống nhất về “tự chủ”, dẫn tới tới việc triển khai thực hiện tự chủ trong thực tiễn chưa hiệu quả trong từng cơ sở giáo dục đại học. Quan niệm, khái niệm “Bộ chủ quản” hoặc “Cơ quan quản lý trực tiếp” vẫn còn nhiều tranh luận.
Hành lang pháp lý hướng dẫn thực hiện tự chủ đại học quy định trong Luật Giáo dục Đại học, Nghị định hướng dẫn vẫn cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung cho phù hợp thực tiễn triển khai. Như, trong thực hiện ở một số cơ sở giáo dục đại học “tự chủ” được hiểu và đánh đồng với việc tự chủ về tài chính; hoặc có một số cơ sở giáo dục đại học khi xây dựng đề án tự chủ toàn diện thì lại có thiên hướng cân nhắc, đánh đổi giữa thực hiện tự chủ với việc ngừng cấp ngân sách nhà nước cho nhà trường cả về chi thường xuyên lẫn chi đầu tư. Vai trò, chức năng của hội đồng trường nhìn chung còn hạn chế, chưa rõ nét.
Nhiều cơ sở giáo dục đại học sau khi thành lập Hội đồng trường đều tiến hành xây dựng quy chế hoạt động, nhưng việc triển khai còn lúng túng. Hoạt động của Hội đồng trường còn chưa thường xuyên do quy định về thời gian cho mỗi cuộc họp chỉ là ½ ngày, nên cũng ảnh hưởng đến việc thảo luận sâu các vấn đề quan trọng của nhà trường.
Nhiều Hội đồng trường vẫn chưa thực hiện được những quyền được quy định trong Nghị định số 99/NĐ-CP của Chính phủ, mặc dù Hội đồng trường được quy định nhiều quyền nhưng không gắn với trách nhiệm và lợi ích; việc thực hiện chức năng giám sát điều hành và quản lý đối với ban giám hiệu, hiệu trưởng theo quyết nghị của Hội đồng trường chưa thực hiện đầy đủ. Bộ máy giúp việc Hội đồng trường chưa được thành lập và chưa có cơ chế hoạt động. Vai trò giám sát việc thực hiện các quyết nghị: về chiến lược phát triển; các kế hoạch, đề án; về bộ máy tổ chức, nhân sự; hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế… chưa thực sự hiệu quả, chỉ dừng ở mức độ xem xét các báo cáo của ban giám hiệu mà ít thẩm định hoặc chất vấn, phản biện.
Mối quan hệ về quyền lực và trách nhiệm giữa Hội đồng trường và Hiệu trưởng, giữa Đại học và cơ sở giáo dục/trường đại học trong công tác quản trị đại học ở nhiều nơi chưa được phân định rõ rạng. Nguyên nhân chính là ở chỗ chưa phân biệt được trách nhiệm lập kế hoạch chiến lược, xây dựng chính sách ở cấp khái quát, mang tính định hướng của Hội đồng trường phải cao hơn so với các quy định cụ thể về được phép làm những gì, không làm gì do Hiệu trưởng ban hành. Hội đồng trường chịu trách nhiệm xây dựng hệ sinh thái cho nhà trường đổi mới, đồng thời Hiệu trưởng chịu trách nhiệm triển khai các đổi mới đó. Cả Hội đồng trường và Hiệu trưởng cần nhận thức được sự cấp bách phải thay đổi để phát triển trong bối cảnh mới. Trách nhiệm của mỗi bên trong việc đổi mới nhà trường như vậy đã rõ ràng.
Ngoài ra, Chủ tịch Hội đồng trường cần có một vai trò hạn chế, chỉ được quyết định khi đã có ý kiến của đa số thành viên Hội đồng trường (theo quy định) trong khi Hiệu trưởng cần có sự quyết đoán và chịu trách nhiệm về những quyết định của mình. Nhưng Hiệu trưởng phải thực hiện Nghị quyết của Hội đồng trường. Hiệu trưởng là người có trách nhiệm và quyền hạn cao nhất về chuyên môn, học thuật. Thời gian qua đã xảy ra những tình huống nhiều cơ sở giáo dục đại học không kiện toàn được hiệu trưởng bởi vì không tổ chức được Đại hội Đảng, không bầu ra được cấp uỷ mới… nên ảnh hưởng nhiều đến vấn đề nhân sự, tổ chức bộ máy.
Mối quan hệ của nhà trường với cơ quan chủ quản còn bất cập. Hiện nay nhiều cơ quan chủ quản vẫn muốn “quản” theo cơ chế hành chính đối với các trường đại học. Song, bên cạnh đó, một số cơ sở giáo dục vẫn mong muốn vừa được “tự chủ”, nhưng lại vừa vẫn muốn được trực thuộc cơ quan chủ quản, vì chưa đủ tự tin để hoạt động độc lập mà vẫn trông chờ vào sự hỗ trợ, nhất là hỗ trợ về kinh phí. Tự chủ và trách nhiệm giải trình là hai mặt của một vấn đề, có sự gắn bó và tác động qua lại lẫn nhau không thể tách rời, trong đó, vai trò của Nhà nước là không thể phủ nhận, đặc biệt là trong việc hoàn thiện khung khổ pháp lý nhằm tạo sự công bằng, bình đẳng trong triển khai thực hiện tự chủ đại học, song thực tiễn việc thực hiện vấn đề này ở nhiều cơ sở giáo dục đại học chưa hiệu quả.
3. Một số khuyến nghị về tự chủ đại học và trách nhiệm giải trình góp phần tạo chuyển biến căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo thời gian tới
Các cơ quan liên quan cần sớm triển khai sửa đổi Luật Giáo dục đại học và Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục đại học để kịp thời khắc phục, tháo gỡ khó khăn, bất cập, vướng mắc trong khi thực hiện Luật sửa sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học. Để các cở sở giáo dục đại học ổn định phát triển, cần nghiên cứu sửa đổi các vấn đề:
- Thành lập trường là đơn vị đào tạo thuộc cơ sở giáo dục đại học;
- Điều kiện để các trường đại học liên kết thành đại học;
- Quy định về thủ tục thành lập Hội đồng trường đối với trường mới thành lập và cuối nhiệm kỳ Hội đồng trường của các trường đã có Hội đồng trường trong đó có quy định về tập thể lãnh đạo trường (một khái niệm mới);
- Quy định về thủ tục thay thế Chủ tịch và thành viên Hội đồng trường;
- Quy định về bãi nhiệm, miễn nhiệm Chủ tịch và thành viên Hội đồng trường trong các trường công lập và trong các trường thuộc đại học;
- Quy định rõ về vai trò và quyền hạn của cơ quan quản lý trực tiếp của trường đại học;
- Quy định về thủ tục thành lập, công nhận Hội đồng đại học, Chủ tịch Hội đồng đại học, Giám đốc đại học;
- Quy định về tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục đại học;
- Quy định về quyền tự chủ đại học.
Hiện nay, một số vấn đề nêu trên cũng đang được các cơ quan chức năng nghiên cứu sử đổi. Tuy vậy, có thể nói những thay đổi này mới chỉ đề cập đến các thủ tục về mặt tổ chức mà chưa giải quyết được những vướng mắc cốt lõi về các mối quan hệ về quyền lực và trách nhiệm giữa Hội đồng trường và Hiệu trưởng, giữa đại học và trường đại học trong công tác quản trị đại học; tổ chức của một đơn vị kiểm định chất lượng giáo dục đáp ứng yêu cầu của Luật Giáo dục đại học và do đó chưa thể tháo gỡ được các vướng mắc trong việc thực hiện Luật.
Vai trò của Chủ tịch Hội đồng trường và Hiệu trưởng cần được quy định để thực hiện khả thi trong thực tiễn, hiện nay Hiệu trưởng vẫn nắm quyền cốt lõi và quan trọng trong hoạt động của nhà trường. Vì vậy cần có quy định cụ thể rõ ràng đối với quy trình tổ chức bộ máy quản trị của nhà trường, từ đó mới tháo gỡ được các vấn đề khi thành lập mới hoặc nhiệm kỳ mới của Hội đồng trường, đồng thời sẽ giải quyết triệt để các mối quan hệ về quyền lực và trách nhiệm giữa Hội đồng trường và Hiệu trưởng, giữa đại học và trường đại học trong công tác quản trị đại học.
Mối quan hệ ba bên: Nhà nước, Hội đồng trường và Hiệu trưởng cần được nhận thức rõ hơn nữa. Hiệu trưởng với tư cách người điều hành công việc thường xuyên của nhà trường trong các lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng, người có trách nhiệm và quyền hạn cao nhất về chuyên môn và học thuật. Đây là những quyền cốt lõi và quan trọng mà hiệu trưởng phải đảm nhận nhưng cũng là những việc mà Hội đồng trường không nên can thiệp trực tiếp. Hội đồng trường chịu trách nhiệm tập thể về chủ trương chiến lược, chính sách và điều rất quan trọng là hoạch định những đổi mới của nhà trường kể cả trong những lĩnh vực chuyên môn và học thuật để bắt kịp đòi hỏi của xã hội, người học và thị trường lao động, phòng ngừa và xử lý các rủi ro phát sinh trong quá trình đổi mới và chịu trách nhiệm về những hoạch định đó. Đề cao vai trò lãnh đạo và việc thực thi vai trò lãnh đạo của Đảng trong nhà trường đại học công lập tự chủ cần được Ban Bí thư Trung ương quy định, cụ thể là việc tổ chức Đại hội Đảng bộ, về nhân sự đại hội, về trách nhiệm của tổ chức Đảng trong việc chậm trễ bầu ra cấp ủy mới.
Quy định để làm rõ khi nào cơ quan quản lý bổ nhiệm công nhận hiệu trưởng trong việc thực hiện các quy định về công tác cán bộ…để thể hiện vai trò và trách nhiệm quản lý nhà nước của họ. Với trường mới thành lập thì cơ quan quản lý nên bổ nhiệm Hiệu trưởng (có thời hạn). Cơ quan quản lý cũng cần bổ nhiệm hiệu trưởng nếu sau một thời hạn nhất định (theo quy định) mà tập thể nhà trường không đề xuất được hiệu trưởng mới. Trường hợp khác thì cơ quan quản lý nên công nhận hiệu trưởng mới sau khi đã thực hiện các thủ tục cần thiết (theo quy định).
Kiểm định chất lượng giáo dục được coi là phương thức để bảo đảm cân bằng giữa tự chủ và nghĩa vụ giải trình và chịu trách nhiệm. Thông qua trải nghiệm kiểm định chất lượng giáo dục đại học thì chủ yếu do nhận thức về vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của Hiệu trưởng trong mối quan hệ với Đảng ủy và Hội đồng trường cũng như cơ quan quản lý nhà nước chưa đưa ra được các thực hành tốt nhất trong việc thực thi mối quan hệ này. Khi đã có nhu cầu thực sự sử dụng hiệu quả công quỹ (với trường công lập) và học phí mà xã hội đầu tư cho con em học tập trở thành một khái niệm liên quan đến đánh giá và đo lường hiệu suất, theo dõi tất cả các hoạt động của một trường đại học chính là kiểm định và công nhận chất lượng bởi một tổ chức độc lập trở thành một lựa chọn để thực hiện chức năng quản lý và kiểm soát, đồng thời thúc đẩy các trường đại học phải xây dựng một hệ thống đảm bảo chất lượng nội bộ hiệu quả và bao phủ toàn bộ các hoạt động của nhà trường đại học thay cho việc ban hành các định chế.
Cuối cùng, để tháo gỡ cho công tác quản trị nhà trường đại học hiện nay dựa trên nền tảng của Hội đồng trường thì các văn bản pháp lý rất nên làm rõ, hướng dẫn các trường thực thi các quy định trong Luật về mối quan hệ giữa Hội đồng trường và Hiệu trưởng về quyền hạn, trách nhiệm của mỗi bên trong việc ra quyết định chính sách, giám sát, đánh giá và cải tiến các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng của nhà trường; huy động các nguồn lực, phòng ngừa và xử trí các rủi ro trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học Việt Nam đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong tình hình mới.
Trong bối cảnh hội nhập, với xu hướng tự chủ đại học trên thế giới ngày càng mở rộng thì vấn đề cấp bách đối với giáo dục và đào tạo hiện nay là Việt Nam phải có những giải pháp thiết thực để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các cơ sở giáo dục đại học, đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Việc xác định tự chủ đại học trong xây dựng chính sách, hoàn thiện hành lang pháp lý đối với giáo dục đại học nói chung, tự chủ đại học nói riêng cần được nhận thức, đổi mới ngay trong chính nội tại của mỗi cơ sở đại học. Một trong đột phá, giải pháp quan trọng thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học thành công thời gian tới chính là các cơ sở giáo dục đại học cần đổi mới quản trị đại học theo hướng cải cách thực chất hơn nữa để trở thành một thực thể trưởng thành, tự kiểm soát hành vi, tự chịu trách nhiệm, giải phóng những năng lực, khả năng, tiềm năng từ nội tại, mở đường cho sự sáng tạo trong mọi hoạt động của nhà trường. Nhân việc chúng ta đang tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, những vấn đề được đề cập trong bài viết này được tổng hợp từ thực tiễn triển khai tự chủ đại học thời gian vừa qua, hy vọng sẽ đóng góp một phần ý tưởng, để xuất một số gợi ý về tự chủ và trách nhiệm giải trình trong giáo dục đại học với các cơ quan liên quan trong nghiên cứu, xây dựng, hoạch định và thực thi chính sách hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo, chuẩn bị nguồn nhân lực, nhất nhân lực chất lượng cao, trình độ cao cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số đáp ứng nhu cầu, yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong tình hình mới.
TS. Lê Thị Mai Hoa[10]; GS.TSKH. Đặng Ứng Vận[11]
Tài liệu tham khảo:
- Văn kiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII.
2. Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
3. Phỏng vấn GS. Đặng Ứng Vận đăng trên Báo Đại biểu nhân dân số ngày 12/04/2023;
4. Luật số 34/2018/QH14, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học;
5. Nghị định số 99/2019/NĐ-CP, Hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học;
6. Quyết định số 24/2013/QĐ-TTg, Ban hành quy định về bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ chức và miễn nhiệm cán bộ công chức lãnh đạo.
7. Đặng Ứng Vận, “Đổi mới giáo dục đại học từ ý tưởng đến thực tiễn”, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
8. Đỗ Đức Hồng Hà, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, “Tự chủ trong giáo dục đại học”.
9. https://moet.gov.vn/tintuc/Pages/tin-tong-hop.aspx?ItemID=8014.
10. Hội nghị tổng kết năm học 2021-2022, Bộ Giáo dục và Đào tạo.
11. Hội thảo khoa học quốc gia “Tự chủ đại học trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học: kết quả, bài học kinh nghiệm và những yêu cầu trong giai đoạn mới”, TP HCM 2023.
[1] Theo thống kê đến hết năm 2021 của Bộ GDĐT, tỷ lệ giảng viên trên tổng số cán bộ, giảng viên và người lao động của các cơ sở GDĐH chiếm 71%, lớn nhất trong cơ cấu nhân lực của nhà trường, hơn gấp đôi số cán bộ quản lý và chuyên viên hành chính.
[2] Tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ tăng từ 25% (năm 2018) lên trên 31% (năm 2021). Tỷ lệ giảng viên có chức danh giáo sư và phó giáo sư cũng tăng dần đều hằng năm (tỷ lệ giáo sư tăng thêm 0,5%/năm; phó giáo sư tăng thêm 5-6%/năm). Tỷ lệ trợ giảng có trình độ đại học giảm mạnh (giảm trên 50% từ 2016 đến 2021).
[3] Từ đầu năm 2018 đến 31/12/2021, có 818 ngành đào tạo do cơ sở GDĐH tự chủ mở; trong đó đã có các ngành đáp ứng nhu cầu nhân lực trong các lĩnh vực mới như: khoa học dữ liệu, phân tích kinh doanh, IoT và trí tuệ nhân tạo ứng dụng, nghệ thuật số, robot và trí tuệ nhân tạo, digital marketing…
[4] Năm 2021, các trường trực thuộc công bố 4.332 bài báo khoa học trên tạp chí thuộc cơ sở dữ liệu Web of Science (tăng gần 20% so với năm 2020).
[5] Sở hữu trí tuệ 2019-2021 (số đăng ký/số cấp bằng): Sáng chế: 129/41; Giải pháp hữu ích: 124/57; Tài sản trí tuệ khác: 45/19.
[6] Trường ĐH Duy Tân: vị trí 401-500, Trường ĐH Tôn Đức Thắng: vị trí 401-500, Đại học Quốc gia Hà Nội: vị trí 1.001-1.200, Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội: vị trí 1.201+, ĐH Quốc gia TP.HCM: vị trí 1.201+.
[7] Trường ĐH Tôn Đức Thắng (vị trí 387, tăng 236 bậc),Trường ĐH Duy Tân (vị trí 577, lần đầu tiên có mặt trong danh sách), Đại học Quốc gia Hà Nội (vị trí 938, tăng 11 bậc), Đại học Quốc gia TP.HCM (vị trí 1.187, tăng 84 bậc), Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội (vị trí 1.449).
[8] Đại học Quốc gia Hà Nội (vị trí 147); Trường Đại học Tôn Đức Thắng (vị trí 142); Đại học Quốc gia TP.HCM (vị trí 179); Trường Đại học Duy Tân (vị trí 210); Trường Đại học Bách khoa Hà Nội (trong nhóm 281-290); Đại học Huế (trong nhóm 401-450); Trường Đại học Cần Thơ, Đại học Đà Nẵng (trong nhóm 501-550); Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường Đại học Kinh tế TP. HCM (trong nhóm 551-600; Trường Đại học Công nghiệp TP.HCM (trong nhóm 601-650).
[9] Đại học Quốc gia Hà Nội (vị trí 601-800), Trường Đại học Tôn Đức Thắng (vị trí 601-800), Trường Đại học Bách khoa Hà Nội (vị trí 601-800) và Trường Đại học Phenika (vị trí 801-1000), Trường Đại học Duy Tân (vị trí 601-800), Trường Đại học Kinh tế quốc dân (vị trí 601-800) và Trường ĐH FPT (vị trí 801-1000).
[10] Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục, Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng.
[11] Nguyên Chánh Văn phòng Hội đồng Quốc gia giáo dục và phát triển nhân lực; nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học Văn phòng Chính phủ; nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Hòa Bình.