Sign In

Cổng thông tin điện tử

Đảng Cộng sản Việt Nam

Về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên mới

13:36 31/03/2025
 

Chọn cỡ chữ A a  

 

   

Những nhận thức lý luận mới về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam là quá trình nhận thức của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta qua tổng kết và kiểm nghiệm thực tiễn.

 

1. Quan niệm của Đảng ta về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế

Ở Việt Nam, vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập quốc tế trong thời kỳ đổi mới được đề cập lần đầu tiên trong văn kiện Ðại hội VII của Ðảng. Đến Ðại hội VIII (1996), Đảng xác định: “Tiếp tục đổi mới cơ chế kinh tế đối ngoại, đẩy nhanh quá trình hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới”.

Ðại hội IX (năm 2001) khẳng định: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, cũng tại Đại hội này, lần đầu tiên vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế được đưa vào văn kiện Đại hội với chủ trương gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Ngày 27-11-2001 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW “Về hội nhập kinh tế quốc tế”, trong đó nhấn mạnh những nguyên tắc nhất quán chỉ đạo quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành kế hoạch hành động, phân công công việc cụ thể cho các bộ, ngành, địa phương.

Đại hội X (năm 2006), Đảng ta xác định “Tạo bước ngoặt về hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại...; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế sâu hơn và đầy đủ hơn với khu vực và thế giới”. Đại hội XI (năm 2011), chuyển từ hội nhập kinh tế quốc tế lên hội nhập quốc tế. Đây là điểm mới trong tư duy hội nhập quốc tế của Đảng ta. Đại hội XII (năm 2016), Đảng ta đưa ra chủ trương: Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

Đại hội XIII (năm 2021), Đảng ta xác định rõ hơn nội hàm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế là: “Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế; không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động của bên ngoài; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế[1].

Đến Hội nghị Trung ương 10, khóa XIII vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế được đặt trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh, kỷ nguyên thịnh vượng dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Như vậy, qua các kỳ đại hội Đảng, chủ trương, đường lối về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế có những bước phát triển phù hợp với tình hình thế giới và trong nước: từ hội nhập rồi chủ động hội nhập; tích cực và chủ động hội nhập, đến chủ động, tích cực hội nhập kinh tế sâu hơn và đầy đủ hơn với khu vực và thế giới. Và hiện tại là: nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Từ những khảo cứu trên đây, có thể thấy rằng, nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam là là một nền kinh tế độc lập, chủ quyền không bị phụ thuộc, chi phối của nền kinh tế của các quốc gia, dân tộc khác và các tổ chức quốc tế, khu vực, có khả năng thích ứng cao với những biến động của tình hình quốc, dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nội hàm cơ bản của nó là nền kinh tế có cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và bảo đảm độ an toàn cần thiết; nền kinh tế phát triển bền vững và có năng lực cạnh tranh cao; cơ cấu xuất, nhập khẩu cân đối; đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong một số ngành kinh tế, nhất là những ngành kinh tế quan trọng, chiếm một tỷ lệ không thể chi phối được nền kinh tế; hạn chế hoặc không cho phép đầu tư nước ngoài vào những ngành nhạy cảm...

2. Vị trí, vai trò của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam

Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam có vị trí, vai trò sau:

Một là, khẳng định chủ quyền, quyền tự quyết, tự lựa chọn con đường phát triển, tự quyết định mô hình phát triển của quốc gia, dân tộc; tăng năng lực thực hiện chủ quyền, tức là thực hiện quyền tự quyết dân tộc trên thực tế; tạo vị thế, tiền đề  cho hội nhập quốc tế, cho chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.

Hai là, quyết định đường hướng phát triển của nền kinh tế đất nước. Độc lập, tự chủ là nhân tố đóng vai trò quyết định trong mối quan hệ với hội nhập quốc tế. Có độc lập, tự chủ thì mới độc lập, tự chủ trong việc tự quyết định lộ trình, bước đi, cách thức, nội dung, biện pháp, đối tác, lĩnh vực,.. hội nhập quốc tế.

Ba là, cho phép tận dụng nhiều cơ hội to lớn, đồng thời hạn chế tối đa những thách thức gay gắt, nhất là đối với những nước vừa, nhỏ, đang phát triển như Việt Nam do quá trình trình toàn cầu hóa gây ra. Để thích ứng với tiến trình toàn cầu hóa, tận dụng được những cơ hội vàng do toàn cầu hóa đem lại, ngăn ngừa và khắc phục những thách thức do toàn cầu hóa gây ra thì các quốc gia phải chủ động, độc lập, tự chủ và nỗ lực cùng nhau hợp tác không phân biệt giàu nghèo, to nhỏ. Nhưng sự hợp tác đó phải trên tinh thần bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng luật pháp quốc tế. Do vậy, các quốc gia, dân tộc chủ động hội nhập quốc tế trên cơ sở độc lập, tự chủ thì mới có hiệu quả.

Bốn là, phát huy được lợi thế so sánh của mình trong quá trình hội nhập quốc tế nhằm thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; hội nhập đầy đủ, sâu rộng hơn vào các thể chế kinh tế thế giới cũng như thể chế kinh tế khu vực; xuất khẩu lao động, tạo cơ hội để nguồn lao động được tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, phong cách làm việc, phương thức tổ chức sản xuất  của những nước khác[2].

Năm là, giúp chúng ta thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Chính quá trình toàn cầu hóa đang làm thay đổi phân công lao động trên từng khu vực và trên toàn thế giới. Chúng ta có thể tận dụng sự tái phân công lao động này để phát huy mặt mạnh và lợi thế so sánh cho phát triển kinh tế. Trên cơ sở đó, rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sẽ cho chúng ta những cơ hội để rút ngắn quá trình này. Bởi lẽ, hội nhập kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa sẽ có cơ hội tiếp nhận và ứng dụng nhanh chóng những thành tựu khoa học-công nghệ tiên tiến để rút ngắn quá trình phát triển.

3. Đặc điểm của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên vươn mới của dân tộc Việt Nam

Một là, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong ký nguyên mới của dân tộc Việt Nam không tách rời xu thế hội nhập quốc tế sâu rộng và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thể hiện sự gắn kết giữa độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế được, nhấn mạnh và hiện thực hóa rõ nét trong từng bước phát triển của kinh tế Việt Nam. Nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự cường với năng lực nội tại sẽ ngày càng vững chắc khi dựa trên khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo. Những yếu tố này giúp Việt Nam hội nhập thành công, từng bước giảm lệ thuộc vào một số đối tác, thị trường. Đồng thời cần nhất quán và tiếp tục chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa đối tác, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với nhiều hình thức, lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn. Trong thời gian qua, nhờ những bước tiến mạnh mẽ của mở cửa hội nhập, sự kết hợp hiệu quả giữa nội lực với ngoại lực, tham gia sâu hơn vào các chuỗi giá trị toàn cầu, kết hợp với thu hút đầu tư khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo đã cho thấy vị thế, uy tín kinh tế - chính trị của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng nâng cao. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn, độc lập, tự chủ về kinh tế luôn có sự gắn kết, đồng hành của bản sắc văn hóa truyền thống, giá trị riêng có của Việt Nam để "hội nhập" mà không "hòa tan".

Hai là, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong ký nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam là sự thể hiện của "ý Đảng, lòng dân" hướng tới phồn vinh, thịnh vượng. Việt Nam hiện nay đang ở trong giai đoạn phát triển mới với hai ngã rẽ quan trọng, một là trở thành nước thu nhập cao, bắt kịp các nước phát triển khu vực và thế giới; ngã kia là tụt hậu kinh tế, thu nhập ở mức trung bình. Sự lan tỏa tinh thần "độc lập, tự chủ gắn với chủ động hội nhập quốc tế" trong thời điểm hiện nay mang ý nghĩa vô cùng to lớn, khơi dậy ý chí tự lực, tự cường, khát vọng của toàn thể hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp, tổ chức và nhân dân. Tùy theo trình độ, lĩnh vực, mức độ nhận thức và năng lực hiện có cũng như tiềm năng, chủ trương này sẽ được vận dụng sáng tạo, thông qua những hành động thiết thực, khả thi, phấn đấu vươn lên để đưa Việt Nam sớm trở thành nước thu nhập trung bình, rồi thu nhập cao, phát triển bền vững, bao trùm, đồng thời hiện thực hóa khát vọng phát triển phồn vinh, thịnh vượng, "sánh vai cường quốc năm châu" như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 

Ba là, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong ký nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam là yếu tố quan trọng hàng đầu, bảo đảm sự ổn định, bền vững của nền kinh tế Việt Nam trong thế giới nhiều biến động. Chúng ta có thể thấy, bối cảnh thế giới hiện nay và sắp tới dự đoán sẽ còn nhiều phức tạp, bất định và rủi ro (như thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, xung đột chính trị, cạnh tranh chiến lược; rủi ro lạm phát, tài chính - tiền tệ; an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh chuỗi cung ứng …) đã và đang đặt ra bài toán cho nền kinh tế Việt Nam. Vì thế, việc tăng tính độc lập, tự chủ, tự cường gắn với chủ động hội nhập quốc tế, nâng cao năng lực chống chịu của nền kinh tế là yêu cầu khách quan, tất yếu và cấp thiết nhằm bảo đảm tính liên tục, ổn định, chắc chắn, không bị gián đoạn các hoạt động kinh tế - xã hội; giúp đất nước tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, tránh được các cú sốc, khủng hoảng từ thế giới bên ngoài, đồng thời giúp nền kinh tế phát triển bền vững, bao trùm hơn[3].

4. Nội dung, tiêu chí xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong ký nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam

Để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong ký nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, cần tập trung vào một số nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, tiếp tục cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng tiên tiến, hiện đại và hội nhập. Một nền kinh tế có cơ cấu ngành tiên tiến, hiện đại là nền kinh tế có ngành công nghiệp, dịch vụ đạt từ 85% trở lên. Trong đó, các ngành công nghiệp, dịch vụ phải chứa hàm lượng tri thức cao, công nghiệp hướng đến các ngành công nghệ sinh học và gen, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới… đáp ứng yêu cầu của kinh tế số, chuyển đổi số. Ở Việt Nam, chú ý vừa kết hợp nhận chuyển giao khoa học, công nghệ vừa kết hợp tự nghiên cứu để từng bước làm chủ công nghệ, nhất là công nghệ nguồn. Đối với cơ cấu vùng lãnh thổ. Chú ý đầy đủ các khía cạnh vùng, trong đó trú trọng đến các loại vùng chuyên môn (khu công nghiệp, khu kinh tế, đặc khu kinh tế); vùng kinh tế trọng điểm để bảo đảm động lực và sức lan tỏa; vùng nông thông – thành thị để bảo đảm quá trình đô thị hóa. Đối với cơ cấu thành phần kinh tế, tập trung để kinh tế tư nhân thật sự trở thành động lực của sự phát triển kinh tế, khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, từng bước để kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể dần trở thành nền tảng của nền kinh tế.

Nền kinh tế hội nhập là nền kinh tế có độ mở, có khả năng thích ứng cao với những biến động của tình hình quốc tế và ít bị tổn thương trước những biến động đó. Trong bất cứ tình huống nào nó cũng có thể cho phép duy trì được các hoạt động bình thường của xã hội và phục vụ đắc lực nhiệm vụ quốc phòng - an ninh.

Thứ hai, nền kinh tế phát triển bền vững và có năng lực cạnh tranh cao. Nền kinh tế phát triển bền vững là nền kinh tế phát triển ổn định cả trước mắt và lâu dài. Theo hướng này, Việt Nam cần tập trung vào các ngành công nghiệp chế tác, như cơ khí, luyện kim… các ngành đổi mới, sáng tạo (AI) và những ngành mà nước ta có thế mạnh như nông nghiệp và chế biến nông lâm, thủy sản…

Thứ ba, cơ cấu xuất, nhập khẩu hợp lý. Bảo đảm xuất siêu đối với toàn bộ nền kinh tế. Trong đó trú trọng đến việc xuất các mặt hàng có hàm lượng chất xám cao nhằm nâng cao giá trị, thu hút vốn, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn lớn của thế giới. Đối với nhập khẩu, chủ yếu nhập khẩu tư liệu sản xuất, các yếu tố đầu vào, kết hợp nhập khẩu với chuyển giao khoa học công nghệ.

Thứ tư, xác định những ngành hạn chế hoặc không cho phép nước ngoài đầu tư là những ngành nghề có liên quan đến an ninh quốc gia, đến khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế và các ngành nghề qui định theo các điều ước quốc tế. Hiện tại, Việt Nam có 25 ngành nghề các nhà đầu tư nước ngoài chưa được tiếp cận thị trường và 59 ngành nghề các nhà đầu tư nước ngoài được tiếp cận có điều kiện, được qui định tại Luật đầu tư và nghị định hướng dẫn thi hành.

Thứ năm, Xây dựng hệ thống thể chế đồng bộ, chủ động hội nhập quốc tế trong ký nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, trước hết là xây dựng hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện nghiêm minh bảo đảm hành lang pháp lý cho nền kinh tế vận động và hội nhập. Các chủ thể của nền kinh tế có khả năng tự lập và vươn tầm quốc tế.

Các tiêu chí xây dựng, đồng thời cũng là tiêu chí có thể dùng đánh giá mức độ độc lập tự chủ, tích cực hội nhập quốc tế. Bước đầu nghiên cứu, chúng tôi đề xuất hai nhóm tiêu chí, trên cơ sở đó hình thành các chỉ tiêu để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Nhóm thứ nhất, năng lực tự chủ của nền kinh tế là độc lập, tự chủ về đường lối phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN); đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo tiềm lực kinh tế, khoa học và công nghệ, cơ sở vật chất - kỹ thuật đủ mạnh; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả và sức cạnh tranh; có thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm nền kinh tế đủ sức đứng vững và ứng phó được với các tình huống phức tạp, tạo điều kiện thực hiện có hiệu quả các cam kết quốc tế... Nhóm này gồm các chỉ tiêu sau:

Một là, cơ cấu ngành kinh tế: Nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong ký nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam phải là một nền kinh tế tiên tiến, hiện đại. Hiện nay một nền kinh tế có cơ cấu ngành tiên tiến, hiện đại là nền kinh tế có ngành công nghiệp, dịch vụ đạt từ 85% trở lên. Trong đó, các ngành công nghiệp, dịch vụ phải chứa hàm lượng tri thức cao, công nghệ hướng đến các ngành công nghệ sinh học và gen, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới… Ở Việt Nam, chú ý vừa kết hợp nhận chuyển giao khoa học, công nghệ vừa kết hợp tự nghiên cứu để từng bước làm chủ công nghệ, nhất là công nghệ nguồn.

Hai là, mức tích lũy tự nội bộ nền kinh tế, được tính bằng tỷ lệ tích lũy/GDP. Về nguyên tắc, tỷ lệ này càng cao càng thể hiện sự độc lập tự chủ của nền kinh tế. Tuy nhiên, do phụ thuộc vào công cụ tích lũy là vàng và ngoại tệ nên khi tỷ lệ tích lũy đạt đến một mức nào đó (khoảng gần 50% trở lên) sẽ phụ thuộc vào giá vàng và tỷ giá, nếu không điều hành vĩ mô tốt sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế như trường hợp ở các nước Đông Á trong cuộc khủng hoảng kinh tế 2008.

Ba là, tỷ lệ nợ công/GDP là một chỉ số quan trọng để đánh giá về sự bền vững của nền tài chính quốc gia. Nếu nợ chính phủ của một quốc gia quá cao, đây là một dấu hiệu cho thấy quốc gia đó có thể gặp khó khăn trong việc đáp ứng các nghĩa vụ tài chính, có nguy cơ dẫn tới bất ổn kinh tế. Tuy nhiên có trước hợp đặc thù như Mỹ, Nhật Bản có tỷ lệ nợ công/GDP đến hơn 100% nhưng nhờ thực lực của nền kinh tế mạnh và chủ yêu là nợ người dân (phát hành trái phiếu) và thời gian trả nợ dài nên vẫn có khả năng ổn định nền kinh tế. Riêng Nhật Bản hiện tại nợ quốc gia đang hơn 200% GĐP, đang là cảnh báo của tất cả các tổ chức tài chính quốc tế.

Nhóm thứ hai, là tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, tranh thủ mọi thời cơ để phát triển trên nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, chủ quyền quốc gia và bản sắc văn hóa dân tộc; bình đẳng, cùng có lợi, vừa hợp tác, vừa đấu tranh; đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại; đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch... Nhóm này gồm các chỉ tiêu:

Một là, độ mở của nền kinh tế, được tính toán bằng công thức: Xuất nhập khẩu/GDP. Khi Xuất nhập khẩu/GDP = 1, thì được coi là nền kinh tế mở cửa. Năm 2023, chỉ số này của Việt Nam xấp xỉ = 2, là một trong những nền kinh tế có độ mở nhất nhì thế giới. Ngoài ra xuất khẩu/GDP còn được tính theo 2 chỉ tiêu: Xuất khẩu hàng hóa/GDP, xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ/GDP. Tỷ trọng này càng cao thì càng thể hiện mực độ hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới.

Hai là, tỷ lệ GDP khu vực FDI/tổng GDP. Chỉ tiêu này có tính hai mặt. Một mặt thể hiện mức độ mở cửa, hội nhập của nền kinh tế khu vực và thế giới. Mặt khác, cho thấy mức độ phụ thuộc và lệ thuộc vào nền kinh tế bên ngoài. Thông thường, tỷ trọng GDP khu vực FDI/tổng GDP quốc gia khoảng 20% – 30% là tốt nhất, cao hơn là dần chuyển từ phụ thuộc lẫn nhau sang lệ thuộc vào nước ngoài và các tổ chức quốc tế.

Ba là, vốn FDI thực hiện/tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Tỷ lệ này ở mức 20% - 30% là bảo đảm cho một nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế, cao hơn là dần chuyển từ phụ thuộc vào vốn nước ngoài sang lệ thuộc, tỷ trọng càng cao thì mức độ lệ thuộc càng cao.

Bốn là, xuất khẩu của khu vực FDI/tổng kim ngạch xuất khẩu. Chỉ tiêu này thể hiện tính quy luật, giai đoạn đầu khi thu hút thành công FDI thì tỷ lệ này thường rất cao, sau đó giảm dần. Hiện tại giá trị sản xuất công nghiệp do khu vực FDI tạo ra trong nền kinh tế Việt Nam rất cao – các doanh nghiệp FDI chiếm 80% giá trị xuất khẩu, đặc biệt hơn còn chiếm 80% giá trị mặt hàng có hàm lượng chất xám cao. Đây là một điểm nghẽn cần quyết tâm, kiên trì tháo gỡ.

5. Các nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong ký nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam

Các tiêu chí xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đều các nhân tố ảnh hướng đến quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Ngoài ra còn có thể kể đến một số nhân tố sau:

Thứ nhất, trung tâm thịnh vượng toàn cầu sẽ tiếp tục xu hướng dịch chuyển từ Tây sang Đông với vai trò dẫn dắt ngày càng lớn của Trung Quốc và triển vọng phát triển hàng đầu của khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Tỷ trọng của các nền kinh tế phương Tây có xu hướng giảm dần, tỷ trọng của các nền kinh tế như Trung Quốc, Ấn Độ ngày một tăng. Đông Nam Á sẽ trở thành điểm đến ưa thích của các dòng vốn FDI khi các công ty đa quốc gia tái cân bằng chuỗi cung ứng để đa dạng hóa thị trường, tránh rủi ro địa chính trị và tận dụng tối đa nguồn lao động giá rẻ tại khu vực. ASEAN hiện là nền kinh tế đông dân thứ ba thế giới và được dự báo sẽ trở thành nền kinh tế lớn thứ tư (sau Trung Quốc, Mỹ, EU) vào năm 2030. Tại châu Á - Thái Bình Dương, tập hợp lực lượng sẽ tiếp tục phân hóa mạnh theo trục Mỹ - Trung, có khả năng sẽ buộc các quốc gia trong khu vực vào thế chọn phe, do đây là khu vực cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung diễn ra quyết liệt nhất. Nhìn chung, những diễn biến phức tạp, nhanh chóng và khó lường của tình hình thế giới, khu vực sẽ tiếp tục mang lại cho Việt Nam cả cơ hội và thách thức đan xen, trong đó thách thức là lớn hơn. 

Thứ hai, các tổ chức quốc tế, thể chế đa phương, với trung tâm là hệ thống Liên hợp quốc chịu tác động sâu sắc từ cạnh tranh giữa các nước lớn, đặc biệt là cuộc xung đột Nga - Ukraina. Nhưng ở góc độ khác, hệ thống các tổ chức quốc tế cũng chứng tỏ được vai trò thúc đẩy hòa bình, an ninh quốc tế, hỗ trợ phát triển, nhất là góp phần quan trọng giải quyết các vấn đề toàn cầu cấp bách hiện nay như dịch bệnh, biến đổi khí hậu, xóa đói giảm nghèo và các vấn đề an ninh phi truyền thống. Các tổ chức quốc tế và khu vực, các diễn đàn đa phương lớn, các cơ chế hợp tác tiểu vùng... đang nỗ lực cải cách, điều chỉnh, kiến tạo những hình thức liên kết đa phương mới hỗ trợ cho các nước bảo vệ độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia trong bối cảnh quốc tế đầy biến động.

Thứ ba, những nguy cơ suy thoái, đứt gãy chuỗi cung ứng, lạm phát tăng cao... cả ngắn và trung hạn do thiên tai, địch họa, xung đột vũ trang là những khó khăn, thách thức đã tác động đến việc bảo đảm mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Tình hình Biển Đông và các vấn đề an ninh khu vực, các vấn đề an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước... đặt ra nhiều thách thức đối với môi trường an ninh và phát triển của nước ta.

Kết luận

Những nhận thức lý luận mới về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam là quá trình nhận thức của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta qua tổng kết và kiểm nghiệm thực tiễn. Tiến trình này ngày càng hoàn thiện và sâu sắc hơn, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam. Trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, điều kiện, hoàn cảnh đất nước sẽ sẽ tạo ra những cơ hội, thách thức mới, tình hình thế giới cũng không ngừng biến động, chắc chắn những nhận thức lý luận mới về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên mới sẽ được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện và phát triển đưa Việt Nam trở thành một quốc gia dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc.

TS Đỗ Đức Quân

Học viện chính trị khu vực I

 

 


[1]: PGS, TS. Vũ Văn Phúc: Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế qua nghiên cứu tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

[2]: GS TS Vũ Văn Hiền, Nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế

[3]: TS Cấn Văn Lực, Kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động hội nhập giúp đất nước phát triển bền vững và bao trùm hơn.

Tag: