|
|
Việt Nam tham gia tích cực vào Hợp tác kinh tế tiểu vùng GMS (Ảnh minh hoaj) |
Hợp tác kinh tế tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS) là khuôn khổ hợp tác được thành lập đầu tiên tại tiểu vùng Mê Công vào năm 1992 với sự hỗ trợ của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB). ADB đóng vai trò điều phối thông qua Ban thư ký GMS. Thành viên của GMS gồm Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc (với 2 tỉnh đại diện là Vân Nam và Quảng Tây).
Mục tiêu của GMS là: Thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác phát triển kinh tế cùng có lợi giữa các nước Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan, Việt Nam và hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây (Trung Quốc); hỗ trợ các nước GMS thực hiện thành công các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, đưa tiểu vùng Mê Công mở rộng nhanh chóng trở thành vùng phát triển nhanh và thịnh vượng ở Đông Nam Á. GMS sẽ thực hiện mục tiêu này thông qua tiêu chí 3C là: Tăng cường tính kết nối (Connectivity), Tăng cường tính cạnh tranh (Competitiveness), Tăng cường tính cộng đồng (Community).
Đến nay, GMS đã tổ chức được 26 Hội nghị Bộ trưởng (HNBT) và 7 Hội nghị Thượng đỉnh (HNTĐ). Tại HNTĐ GMS lần thứ 7[1], các nước GMS đã thống nhất thông qua Khung chiến lược Chương trình hợp tác kinh tế Tiểu vùng Mê Công mở rộng 2030 (GMS-2030) nhằm xác định hướng phát triển của tiểu vùng trong thập kỷ tới dựa trên thế mạnh của GMS là tập trung vào kết nối và thúc đẩy cách tiếp cận dựa trên triển khai các dự án cụ thể. Tình hình hợp tác của GMS dựa trên các cơ sở sau:
Về tầm nhìn: Phát triển một tiểu vùng GMS hội nhập, thịnh vượng, bền vững và toàn diện hơn.
Về sứ mệnh: Tập trung vào các thế mạnh cơ bản của cộng đồng, kết nối và khả năng cạnh tranh nhằm xây dựng một cộng đồng GMS với tương lai chung tươi sáng, trên cơ sở áp dụng các nguyên tắc cốt lõi: Tính bền vững và khả năng phục hồi của môi trường; Liên kết nội khối và với bên ngoài; Tính bao trùm.
Về trụ cột hợp tác: Trụ cột 1 - “Cộng đồng”: Phát triển cộng đồng GMS lành mạnh và bền vững về môi trường, mang lại phúc lợi cho tất cả người dân trong tiểu vùng.
Trụ cột 2 - “Kết nối”: Tăng cường kết nối giao thông và năng lượng.
Trụ cột 3 - “Năng lực cạnh tranh”: Nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua khôi phục và thúc đẩy thương mại và đầu tư, nông nghiệp, du lịch, phát triển đô thị theo cách thân thiện với khí hậu, xây dựng một môi trường kinh doanh cởi mở, công bằng, không phân biệt đối xử.
Về lĩnh vực hợp tác:
Nông nghiệp: Thúc đẩy tiêu chuẩn chất lượng và an toàn thực phẩm cao hơn để mở rộng xuất khẩu, khuyến khích hoạt động sản xuất thân thiện với khí hậu và môi trường, tập trung vào nông dân quy mô nhỏ và các doanh nghiệp nông nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa, và hỗ trợ ứng phó và phục hồi an ninh lương thực trong trung và dài hạn.
Năng lượng: Đẩy mạnh thương mại điện xuyên biên giới[2], thiết lập các mã lưới điện khu vực, phát triển thị trường điện khu vực, đẩy mạnh đầu tư năng lượng sạch trong đó khuyến khích vai trò lớn hơn của khu vực tư nhân.
Môi trường: Áp dụng công nghệ xanh thúc đẩy bền vững môi trường và khả năng thích ứng biến đổi khí hậu (BĐKH), bảo vệ hệ sinh thái, chính sách thích ứng BĐKH, quản lý rủi ro thiên tai, đẩy mạnh hiệu quả năng lượng, năng lượng tái tạo, cảnh quan thông minh thích ứng BĐKH, quản lý chất thải bền vững.
Y tế và nguồn nhân lực: Kiểm soát bệnh truyền nhiễm xuyên biên giới, trao đổi thông tin, thực hiện các quy định y tế quốc tế, ứng phó với đại dịch; đẩy nhanh thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân. Chiến lược phát triển y tế GMS 2024-2030 xác định ưu tiên hợp tác trụ cột an ninh y tế khu vực (tăng cường năng lực điều lệ y tế quốc tế, kháng kháng sinh, tăng cường năng lực CDC,…), và trụ cột tăng cường hệ thống y tế hướng tới bao phủ y tế toàn dân ( tiếp cận sản phẩm chăm sóc sức khoẻ, nguồn nhân lực y tế và cơ sở hạ tầng y tế, dịch vụ y tế cho mọi đối tượng).
Du lịch: Phát triển các điểm đến thứ cấp và có giá trị gia tăng cao, nâng cao nguồn nhân lực, thúc đẩy kết nối cơ sở hạ tầng, liên kết công-tư, tính bền vững môi trường, nâng cao trải nghiệm và dịch vụ du lịch, đẩy mạnh tiếp thị và quảng bá du lịch sáng tạo.
Công nghệ thông tin truyền thông: thúc đẩy kết nối hạ tầng viễn thông để tạo nên “siêu xa lộ thông tin”. Công nghệ thông tin truyền thông giúp GMS hội nhập kinh tế và nâng cao khả năng cạnh tranh.
Giao thông: Ưu tiên giao thông liên phương thức, tạo điều kiện cho giao thông xuyên biên giới, cải thiện logistics, quản lý tài sản và an toàn đường bộ, phát triển mạng lưới đường sắt, cảng biển, sông và cảng cạn, đường thủy nội địa, sân bay, phát triển tuyến đường phụ kết nối với các hành lang chính để mang lại lợi ích cho cộng đồng nghèo hơn, tích hợp giao thông đô thị với mạng lưới giao thông GMS.
Thương mại: Hiện đại hóa hải quan, thiết lập các quy định về vệ sinh và kiểm dịch thực vật, tăng cường liên kết với khu vực tư nhân; và hỗ trợ phát triển các nền tảng thương mại điện tử trong tiểu vùng
Phát triển đô thị: Thúc đẩy quy hoạch các thành phố xanh, thông minh, có khả năng cạnh tranh, có khả năng phục hồi, an toàn và toàn diện; thúc đẩy liên kết giữa các thành phố để phát triển các cụm đô thị mới, tập trung tối đa hóa nền kinh tế, phát triển thành phố ở khu vực biên giới, liên kết với các khu kinh tế và công nghiệp đặc biệt, cải thiện quản lý chất thải và ô nhiễm ở các thành phố gần sông và biển.
Về nội dung hợp tác xuyên suốt trong GMS: Cách mạng số: Khai thác tiềm năng chuyển đổi số dựa trên hợp tác về: chính sách và quy định về số; kết nối internet; thương mại điện tử và hệ thống thanh toán; hậu cần và kỹ năng theo nhu cầu; giảm thiểu rủi ro từ công nghệ số. Tiếp cận không gian: Phát triển mạng lưới tích hợp các hành lang kinh tế với khu vực biên giới, thành phố, nông thôn. Đối thoại, chia sẻ kiến thức và nâng cao năng lực: Thúc đẩy đối thoại về chính sách và quy định, tận dụng lợi ích của khoản đầu tư cơ sở hạ tầng và dịch vụ công. Thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân thông qua hỗ trợ chuyên môn và tài chính. Xây dựng GMS thành một nền tảng mở: Hợp tác chặt chẽ với các sáng kiến hợp tác khu vực khác, khuyến khích sự tham gia của chính quyền địa phương, đối tác phát triển, học viện, tổ chức xã hội. Khung kết quả: Thiết lập quy trình giám sát và đánh giá.
Các chiến lược và kế hoạch định hướng hợp tác GMS thời gian tới: Kế hoạch hành động số hoá GMS 2025-2027; Hiệp định thuận lợi hoá vận tải xuyên biên giới; Mạng lưới tri thức GMS; Chiến lược y tế 2024-2030; Khung chiến lược GMS nhằm thúc đẩy các hành động ứng phó với biến đổi khí hậu và bền vững môi trường đến năm 2030, Chiến lược Giao thông vận tải GMS 2030, Kế hoạch Thực hiện Chiến lược Giới GMS 2025-2030…
Việt Nam tham gia tích cực GMS kể từ ngày đầu thành lập. Từ năm 1992, khi bắt đầu tham gia, Thủ tướng Chính phủ đã giao Ủy ban Kế hoạch Nhà nước (nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư) chủ trì và phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu chủ trương, nội dung, hình thức tham gia hợp tác kinh tế tiểu vùng.
Việt Nam tham gia các sáng kiến hợp tác GMS như Hiệp định Vận tải xuyên biên giới (CBTA) các nước GMS; Chiến lược Ngành Giao thông tiểu vùng; Khung Chiến lược thúc đẩy Thương mại và Đầu tư; Diễn đàn Kinh doanh GMS; Kế hoạch Tổng thể Khu vực về Liên kết điện năng trong GMS; Hiệp định giữa các Quốc gia về Thương mại điện năng khu vực, Hiệp định Thương mại điện năng khu vực; Chiến lược Năng lượng tiểu vùng Mê Công; Nghiên cứu về xoá bỏ ma tuý trong GMS; Chương trình xây dựng năng lực cho các cán bộ GMS theo Kế hoạch PhnômPênh về Quản lý Phát triển; Khung Chiến lược Môi trường và Chương trình môi trường trọng tâm, bao gồm Sáng kiến Hành lang Bảo tồn đa dạng sinh học.
Năm 2018, Việt Nam đã lần đầu tiên đăng cai tổ chức Hội nghị cấp cao GMS lần thứ 6 nhân dịp kỷ niệm 25 năm cơ chế hợp tác GMS được thành lập. Trong vai trò chủ nhà, Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị với việc thông qua hai tài liệu mang tính định hướng lớn cho GMS là Kế hoạch hành động Hà Nội 2018 – 2022 và Khung đầu tư khu vực; chính thức khởi động quá trình xây dựng tầm nhìn dài hạn cho GMS sau 2022; và lần đầu tiên Diễn đàn thượng đỉnh kinh doanh GMS đã được tổ chức với sự tham gia của hơn 2.000 đại biểu trong và ngoài khu vực.
Thời gian qua, Việt Nam đã tham gia đầy đủ và tích cực các hoạt động hợp tác của GMS, các bộ, ngành của Việt Nam đã tham gia chủ động, đóng góp ý kiến xây dựng các kế hoạch, chiến lược trong tiểu vùng, như là: Tham gia và triển khai có hiệu quả Chiến lược Giao thông vận tải GMS 2030. Các dự án hạ tầng đã và đang được triển khai, hoàn thành do ADB và các đối tác phát triển hỗ trợ: cao tốc Nội Bài – Lào Cai, dự án nâng cấp mạng lưới giao thông GMS phía Bắc (nâng cấp mở rộng Quốc lộ 217 – giai đoạn 2), dự án kết nối đồng bằng sông Mê Công, dự án kết nối hành lang ven biển phía Nam, góp phần tăng cường kết nối giữa Việt Nam và các nước GMS, hình thành các tuyến hành lang GMS như Hành lang kinh tế Đông – Tây, Hành lang kinh tế phía Nam. Ta tham gia Hiệp định Tạo thuận lợi vận tải người và hàng hoá qua lại biên giới giữa các nước GMS (Hiệp định CBTA), và thông qua việc Gia hạn hiệu lực Bản ghi nhớ thực hiện “Thu hoạch sớm” Hiệp định CBTA đến 31/12/2026; triển khai Bản ghi nhớ bổ sung tuyến đường, cặp cửa khẩu vào Nghị định thư số 1 Hiệp định CBTA. Về du lịch: Việt Nam tiếp nhận 02 dự án “Phát triển cơ sở hạ tầng du lịch hỗ trợ cho tăng trưởng toàn diện tiểu vùng Mê Công mở rộng” giai đoạn 1 từ 2014-2019 và giai đoạn 2 từ 2019-2024 với tổng số vốn ODA là khoảng 95 triệu USD triển khai tại 10 tỉnh[3].
Trong Khung đầu tư khu vực, giai đoạn từ năm 2021-2025, Việt Nam huy động được khoảng 106 dự án trị giá khoảng 10.47 tỷ USD (trên tổng số 535 dự án trị giá 133 tỷ USD).
[1] HNTĐ GMS lần thứ 7 do Cam-pu-chia chủ trì tổ chức ngày 9/9/2021 theo hình thức trực tuyến.
[2] Ủy ban điều phối thương mại điện khu vực (RPTCC) quản lý thương mại điện tiểu vùng từ năm 2004–2022, và chuyển sang Nhóm đặc trách chuyển đổi năng lượng GMS (ETTF) vào tháng 7/2022 nhằm thúc đẩy hợp tác năng lượng chặt chẽ hơn với ASEAN.
[3] Lào Cai, Điện Biên, Hà Tĩnh, Tây Ninh, Kiên Giang, Hoà Bình, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế.